Saturday, May 22, 2010
Sô-Cô-La & Bệnh Tim Mạch
Thai Civil War Can't Be Won with Bullets and Tear Gas
Here’s a crucial lesson for the current Thai regime. It’s far easier to gun down peasants armed with bamboo spears, slingshots and Molotov cocktails on the streets of Bangkok than it is to win the hearts and minds of the increasingly restless peasantry that make up the majority of the country.
The clashes between red-shirt protestors – mostly trucked in from impoverished north and northeast Thailand – and the current regime drew to a bloody close, as was expected. But now it seems certain, too, that the drama that played out in the nation’s capital the last two months is not an end but only an opening chapter to a new epic that, without serious political compromises, threatens to turn into a full-scale rural revolution.
For too long the city of Bangkok has floated in a kind of First World wealth – replete with sky trains, high rises, luxury condos and marbled mega malls – while its rural populace stayed stilted in the mud of Third World poverty. If anything, the greatest fiction the Land of a Thousand Smiles has managed to tell itself and the rest of the world is that it is a bona fide democracy. But what’s behind that infamous smile is an ancient feudal system that’s been built on the roan backs of peasants for a millennium.
More important, that system relied on the lower class's continual servitude and, in some way, their acceptance of a deeply embedded caste system in which reverence for the king, who is accorded god-like status, translated to the reverence for all folks in higher social strata. The caste and status consciousness, as construed by a simplified if misunderstood religious idea in which past karmic debts sent one to a permanent level of society, is so deeply ingrained that it is reflected in the Thai language itself.
However, that old superior-inferior fiction is eroding and eroding fast. In the last decade or so, what was once remote and rural has been integrated with the rest of the world, thanks in large part to the distribution of electricity to even the most remote areas – provided from sparsely populated Laos next door with its mega hydroelectric dams – which brought TV, radio and Internet and the cheap and ubiquitous cell phones, information being the true form of democracy. Those who once lived in isolated thatched huts are thus highly aware of the wide urban-rural gap, and they possess a deep and growing sense of injustice, which in turn undermined the status quo.
More important, it’s a populace that has become increasingly politicized, thanks chiefly to ousted Prime Minister Thaksin Shinawatra. A populist and a multibillionaire, Thaksin introduced effective policies that alleviated rural poverty by half in four years, and, equally enticing, implemented universal health care.
Born in the northern province of Chiang Mai, he also did something else that was unprecedented: He gave the long-suffering rural population visions for upward mobility and shared governance that broke the karmic yoke.
That didn’t sit well with the Bangkok power elite. Not only does it threaten to rewrite the old social order, it threatens to undermine Thailand’s very narrative of itself, its framework, and they reacted. Despite the fact that Thaksin won his second election in a landslide in 2005 with the largest voter turnout in Thailand’s history, they ousted him while he was traveling overseas with a military coup in 2006 and froze his assets. He was found guilty of corruption in absentia.
In December 2007, a pro-Thaksin prime minister was popularly elected to office in the general election. His victory was met by massive protests, this time by protesters wearing yellow shirts who disagreed with the election, claiming fraud. Members of the People's Alliance for Democracy (PAD), the “yellow shirts” chose the color to honor Thailand’s revered King Bhumibol Adulyadej.
Representing a more urban population – in many ways the educated and white-collar class – they blocked the airport for days and stranded nearly 250,000 tourists. The constitutional court, under pressure to get the country moving again, agreed with the yellow shirts and disqualified the pro-Thaksin prime minister.
Ever since then the Thai government has been busy clamping down on the media, harassing independent journalists, and shutting down Internet websites. But it’s all too late. Thaksin – perceived by some as the devil himself and by others as a national hero – is indeed a divisive character but he cracked open Pandora’s box, and the anger and rage that sparked and flew could no longer be contained.
And as the 83-year-old king’s health wanes and the monarchy remains muted, talks of revolution are on the lips of many.
Before the deadly clashes, the red-shirted protestors who occupied central Bangkok for weeks displayed a talent for political theatre with the color red. It was everywhere. They collected buckets of blood from volunteers and then splashed them at various government agencies. When some red-shirt protestors were shot – by laser-guided rifles from roof tops – their coffins, too, were painted red and paraded across the city. After all, those who lived off the land for generations understand the importance of blood. It symbolizes sacrifice, and sacrifices are all important to bring up new crops, appease the gods and spirits, and engender renewal and transformation.
Before the final showdown, CNN interviewed a woman, a mother of two, who sat behind the red-shirt barricade. Was she afraid the army was going to attack? "We want democracy,” she said. “If they do [attack] I would like them to kill me. I am not afraid." It is the voice of martyrdom, steeped in the language of blood sacrifice.
Now that the army had moved into the protesters’ stronghold and mowed down those who resisted, it seems the battle is lost, and the war has only just begun.
NAM editor, Andrew Lam, is the author of Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora and the upcoming memoir: East Eats West: Writing in Two Hemispheres due out in September. He visited Bangkok in Early April 2010.
Wednesday, May 19, 2010
Sex
Chỉ vừa nghe qua tựa đề ‘Sex’ là đã thấy quá hấp dẫn rồi phải không các bạn. Nhưng rất tiếc hôm nay tôi sẽ không bàn luận về từ sex theo nghĩa tình dục. Mà nó sẽ được hiểu theo nghĩa thứ hai của nó là giới tính như trong câu ‘what's your sex?’ Có nghĩa là bạn là trai hay gái? Một câu hỏi quá ư là đơn giản và dễ hiểu cũng như dễ trả lời, phải không các bạn? Thế vậy mà vừa rồi ở cái xứ kangaroo Úc thòi lòi của tôi lại có người không thể nào trả lời câu hỏi này. Và chính phủ Úc cũng lần đầu tiên chấp nhận điều này bằng giải pháp cấp cho ông/bà ta giấy khai sinh lẫn với passport với vỏn vẹn hai chữ ‘not specified’ trong phần đề cập về giới tính (sex) của ông/bà Norrie May-Welby. Not specified. Không định rõ.
Mẹ Chồng
Dù đã chia tay với người tôi từng gọi là ông xã, tình cảm tôi dành cho mẹ anh không bao giờ phai. Tôi đăng lại bài này để nhắc nhở mình đã may mắn như thế nào khi gặp một người phụ nữ như mẹ anh. Đọan duyên giữa chúng tôi đã hết, nhưng tình cảm tôi dành cho bà và những đứa em anh thì vẫn còn.
Mẹ là con gái Nghệ An. Mẹ không đẹp sắc nước hương trời, nhưng cái duyên ẩn trong lúm đồng tiền bên má, bừng sáng nơi nụ cười làm reo đôi mắt long lanh. Mẹ cao ráo, mạnh khỏe, mặc đồ Tây hay áo đầm dài đều rất hợp, dáng sang trọng như mệnh phụ phu nhân.
Mẹ hay bảo mình khổ vì tuổi rơi vào chữ Đinh. Con gái tuổi ấy thì vất vả mà. Tôi cãi, "Nếu vất vả là như mẹ - xông xáo trong mọi việc, độc lập trong tư tưởng, mạnh mẽ trong tính cách, không ỷ lại, mọi việc đều tự lực tự cường, luôn tranh đấu cho sự công bằng, luôn nghĩ cho cảm giác của người xung quanh mình - thì con thà khổ như mẹ." Tôi đã gặp rất nhiều người có số sung sướng, con đường danh vọng suôn sẻ, tình cảm không rắc rối, đời sống vật chất đầy đủ, không có việc gì phải cố gắng quá sức, mọi việc cứ như được sắp sẵn vậy. Nhưng cuộc sống như vậy, theo tôi, nhạt như nước mắm không ớt. Nghe tôi nói, mẹ cười bối rối, thái độ thường thấy của người ít nhận những lời khen trực tiếp. Mà tôi thì nghĩ gì nói nấy, không xạo để lấy lòng, nhưng cũng không dối lòng khi khâm phục một ai.
Tôi thường hay ngạc nhiên khi bắt gặp những tư tưởng rất 'mới' ở mẹ. Ví dụ, mẹ thích phụ nữ đi làm, không chống đối việc con cái sống riêng sau khi lập gia đình, chấp nhận việc con cái yêu và kết hôn với người khác tôn giáo, khác cả quan điểm chính trị. Với mẹ, quan trọng nhất là 'cái tình.' "Có cái tình rồi thì sẽ ở đời với nhau được. Bằng không thì việc gì cũng chẳng xong." 'Cái tình' ỏ đây là coi trọng tình cảm gia đình, kính trên nhường dưới, yêu thương anh em và người khác, sống sao cho vẹn toàn với nhau. Nói tóm lại chỉ cần sống cho thật lòng thật dạ với nhau là đạt được yêu cầu của mẹ. Chỉ đơn giản vậy thôi.
Gia đình khá giả nhưng mẹ nghiêm khắc với con cái, không nuông chiều quá đáng. Đứa con nào cũng phải tự làm tự ăn, không được ỷ lại bố mẹ. Không đứa con nào của mẹ hư hỏng vì chính bản thân mẹ luôn đòi hỏi ở mình rất cao. Có điều kiện vật chất nhưng mẹ luôn tay luôn chân cả ngày, chẳng bao giờ bắt người khác phục vụ mình. Nếu mẹ đòi hỏi một cái sàn nhà sạch bóng thì có nghĩa rằng mẹ có khả năng chùi được như thế. Kẻ ăn người ở tuy nghĩ rằng mẹ khó tính, nhưng không đứa nào không tâm phục khẩu phục vì khi mẹ tự làm việc gì cũng cầu toàn như thế. Mẹ không phải loại người chê bai kẻ khác dù bản thân mình không làm được việc gì ra hồn.
Điều làm tôi phục mẹ nhất là khả năng lắng nghe người khác. Sau khi sinh đứa thứ ba, mẹ bị hậu sản tưởng đã chết đi. Từ đó mẹ mất khả năng đọc và viết vì sẽ chóng mặt ngất đi khi tập trung quá độ. Điều đó có nghĩa kiến thức đến từ sách báo của mẹ bị ngừng lại từ dạo ấy. Bản thân là một người trí thức, mẹ đau biết bao nhiêu, ức biết bao nhiêu khi rơi vào trường hợp này. Vậy mà mẹ không tự cho phép mình ngừng ở đó, mẹ nghe TV hàng ngày, thu thập tin tức qua bạn bè, gia đình, lắng nghe những ý kiến khác biệt và định cho mình một hướng tư tưởng riêng. Có lúc tôi không hiểu vì sao mẹ không bị mất chính kiến của mình, sau tôi hiểu rằng vì mẹ có những giá trị nhất định rất ư Việt Nam của mẹ, nên tư tưởng nào mới lạ đến mấy mà hợp tình hợp nghĩa, đem lại hạnh phúc cho người ta, không làm tổn thương đến ai, thì mẹ sẵn lòng chấp nhận dù lúc ban đầu có thể ngại ngùng.
Cuộc đời tôi toàn gặp những người phụ nữ tốt đẹp. Hạnh phúc tôi cũng nhờ họ phần lớn đóng góp vào, và mẹ là một trong những người ấy. Mẹ là người sinh ra chồng tôi, nuôi nấng và vun đắp cho anh ấy thành người. Mẹ lại trao tặng anh ấy cho tôi không chút ghen tị. Những khác biệt giữa mẹ và tôi khá nhiều, nhưng chúng không là hàng rào ngăn cản chúng tôi. Ngược lại, chúng giúp tôi học hỏi được thêm nhiều điều trước đây tôi ít quan tâm hay chưa bao giờ biết. Mẹ chẳng bao giờ buộc tôi từ bỏ quan điểm riêng của mình, mà còn lắng nghe và cố gắng thấu hiểu dù đôi khi tôi 'lạ lùng' lắm lắm.
Tôi không bao giờ đồng ý với câu thơ 'Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi' vì trong tôi luôn có hai quê hương và có hai người mẹ. Cách thể hiện tình cảm đối với mỗi bên một khác, nhưng cả hai đều quan trọng như nhau. Giống như câu nói của Frere P. mà tôi thường tâm đắc, 'Love is not emotion. Love is at will,' tình cảm của tôi với mẹ là kết hợp của cảm tính và lý trí. Tôi từ kính phục chuyển sang yêu mến người mẹ này.
Tôi muốn viết về mẹ từ lâu rồi, nhưng chưa đủ cảm xúc và từ ngữ để diễn tả trọn vẹn ý tưởng của mình. Có điều nếu không viết bây giờ thì đợi bao giờ mới bắt đầu đây. Tôi chẳng muốn đợi đến một lễ Vu Lan muộn màng phải khóc tiếc nuối ân hận. Tôi muốn mẹ hiểu mẹ quan trọng với tôi đến mức nào. Mẹ ơi.
Sunday, May 16, 2010
Chất Da Cam & Dự Án Báo Chí Việt Nam
Cho đến nay công tác tẩy rửa được chú trọng vào khu vực quanh sân bay Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát, nơi quân đội Mỹ tồn trữ, pha chế chất khai quang và chuyển lên máy bay để rải xuống vùng rừng của Nam Việt Nam. Tuy vậy, không chỉ Washington, nhiều tổ chức nhân đạo và quốc tế như Cộng Hòa Tiệp, Chương Trình Phát Triển LHQ - UNDP, Anh, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Hàn Quốc … cũng đóng góp vào công tác cứu trợ nhân đạo này. Tổ chức Ford Foundation đã đóng góp 11.5 triệu đô-la để làm công tác xét nghiệm mẫu đất bị nhiễm bẩn, cũng như triển khai các phương pháp điều trị, thành lập các trung tâm cứu trợ và giáo dục dành cho nạn nhân và những người bị phơi bày với hóa chất.
Saturday, May 15, 2010
Hoàng Cầm (1922-2010)
Nếu anh còn trẻ như năm cũ
Quyết đón em về sống với anh
Ðây là những dòng thơ Tình Cầm mà tôi đã nghĩ đến ngay sau khi nhận được tin ông mất chiều nay. Thế là lại có một thi sĩ đất Bắc khác cuối cùng đã quyết lìa bỏ thế gian này để trở về với cát bụi. Ðời người rõ là vô thường. Mới thấy đó mà ông và nhà thơ Hữu Loan đã vội ra đi, để lại bao tiếc thương ngậm ngùi cho những người ở thế hệ ông có dư cả tài lẫn đức nhưng ngặt nỗi lại thiếu quá nhiều điều kiện, cơ hội và cả sự trân trọng của chế độ đương thời.Người Việt Nam chúng ta thường nói thời thế tạo anh hùng. Nhưng đối với riêng tôi đã rất nhiều lần tôi thấy và nghe được tận tai là cũng vì thời thế mà nhiều anh hùng đã bị mai một không thể nào tỏa sáng được hết năng lực của mình trong lúc họ sung mãn nhất, có nhiều ý tưởng hay, sáng kiến lạ nhất.
Ông là một trong những người này. Cũng như nhà văn Phùng Quán, nhà thơ Trần Dần, nhà hoạt động nổi tiếng một thời Nguyễn Hữu Ðang người đứng đầu Ban Tổ Chức Ngày Lễ Ðộc Lập 2 tháng 9 năm 1945, nhà thơ Hữu Loan và còn nhiều, rất nhiều người nữa ông bảo thế. Lẽ ra với sự hiểu biết, học cao thấy rộng của họ, với tính cương trực và lòng ngay thẳng của họ, họ đã có thể làm được nhiều điều hơn nữa cho đất nước, để lại cho đời và di sản văn chương Việt Nam nhiều tác phẩm bất hủ hơn.
Nhưng rất tiếc họ đã không làm được như thế. Vì ở thời điểm họ sung mãn nhất vào thập niên 1950, 1960 khi họ ở khoảng độ tuổi 30, 40 lúc ấy cũng là lúc họ bị thiếu thốn nhiều nhất, trù dập nhiều nhất. Không những các tác phẩm của họ không được phép in ấn mà hơn thế nữa niềm đam mê sáng tác, đam mê đóng góp vào nền văn học, xã hội học của đất nước đã hoàn toàn bị hủy diệt. Kẻ vào tù, người ngồi khám. Hoặc như ông bị kiểm điểm từ lời thơ, kịch bản cho đến việc gặp mặt những người bạn chí thân của một thời Nhân Văn Giai Phẩm.
Nếu như tôi chỉ được phép nhớ một điều về ông, về những gì ông đã chia sẻ với tôi qua ba lần gặp gỡ trò chuyện, có lẽ đây sẽ là điều làm cho tôi nhớ nhất. Nhớ là ông đã rất thành thật lúc tâm sự với tôi và với cả chính ông. Với những gì đã xảy ra trong quá khứ, vào thời điểm tôi gặp ông, và với cả những chuyện tình cảm trong cuộc sống riêng tư của chính ông.
Nếu như khi tôi gặp nhà thơ Hữu Loan hầu như lúc nào ông cũng có thể nói về những biến động trong xã hội vào thời ông thì ngược lại, khi tôi gặp nhà thơ Hoàng Cầm, tôi hỏi điều gì ông trả lời điều ấy. Không khách sáo, không cường điệu, không ngại ngùng và phong cách giữ kẽ thường thấy ở người Bắc cũng bằng không.
Ông kể chuyện ông thầm yêu một người chị trong làng lớn tuổi hơn ông khi ông chỉ là một thằng bé tí cứ thể như là ông đang tâm sự với một người bạn cùng thế hệ. Ông đã yêu chị ấy thế nào, gặp nhau ở đâu và trong hoàn cảnh nào chị đã buông lời đố “đứa nào tìm được lá diêu bông, từ nay ta gọi là chồng”... ông đã kể cho tôi nghe rất nhiều trong suốt buổi tối hôm đầu tiên tôi tìm được đến nhà ông ở gần khu Nhà Thờ Chính Tòa trên phố Lý Quốc Sư nằm ngay bên cạnh Hồ Gươm, Hà Nội.
Tôi vẫn còn nhớ hôm ấy trời đã khuya và cả nhà người con trai thứ của ông đều đã phải đi ngủ nhưng ông vẫn vui vẻ nằm kể chuyện cho tôi nghe mãi cho đến lúc tôi chào ông ra về.
Nhưng hình như đêm hôm ấy ở Hà Nội không giống như đêm hôm nay, một đêm tối trời ở tận xứ Phi Châu nghìn trùng xa cách nơi tôi đang mãi miên man nghĩ về ông. Bật máy xem lại đoạn video phóng sự tôi làm về ông cho chương trình Asia năm nào mà cứ tưởng chừng như chỉ mới đêm hôm qua đây thôi ông vừa cho tôi biết những gì ông muốn nhắn nhủ gửi lại cho tất cả chúng ta những thế hệ mai sau của đất nước:
Các cháu cần biết là ai cũng chỉ sống có một lần. Một lần trong cuộc sống con người này phải nói là có rất nhiều chuyện: đau khổ có, vui sướng có, hận thù có, có tất. Nhưng tất cả đều quy lại là cuộc sống nhân gian này nó rất đẹp.
Thế thì khi nào ông cảm thấy hạnh phúc nhất?
Hạnh phúc nhất là khi nào mình làm được một bài thơ, hoặc đôi khi chỉ là một vài câu nhưng nó nói lên được đúng tâm trạng của mình lúc đó và mình cảm thấy thỏa thuê lắm vì từ trước đến giờ mình chưa nói ra được.
Vậy thì khi nào ông cảm thấy đau khổ nhất?
Ðó là lúc mình không nói được. Có những điều đáng nhẽ mình phải nói ra nhưng vì mình bị yếu đuối hoặc vì điều gì đó mà không thể nói được hết ý nghĩ của mình, cảm xúc của mình trong một đất nước như thế này... lúc ấy khổ lắm, khổ tâm lắm vì không viết ra được, không nói ra được.
Nếu vậy thì trải qua bao khó khăn trong cuộc đời lắm gian truân này, lời cuối cùng ông muốn chia sẻ với các thế hệ trẻ Việt Nam sẽ là gì?
Ðó là bất kể, dù có gì đi chăng nữa, các cháu thấy cái gì tốt cho dân tộc thì cứ làm. Cứ mạnh dạn mà làm. Dù cho nó có thể không được công nhận ngay bây giờ nhưng nếu các cháu thấy làm được thì cứ làm. Cái gì lợi cho dân tộc thì cứ làm.
Ðêm hôm nay, trong cơn gió mát lồng lộng từ sa mạc thổi về tôi ngước mặt nhìn lên bầu trời lấp lánh hàng vạn vì sao sáng và chợt nghĩ đã có một vì sao vừa vĩnh viễn vụt đi. Và văng vẳng từ xa tai tôi nghe như có ai thì thầm trong tiếng nhạc:
Lời ru buồn, nghe mênh mang, mênh mang
Sau lũy tre làng, khiến lòng tôi xôn xao...
Trích blog Trịnh Hội tại http://www1.voanews.com/vietnamese/blogs/hoi/hoang-cam-05-07-2010-93078494.html
Friday, May 14, 2010
Ngày Bình Minh
Ngày hôm nay đối với tôi đẹp không kém ngày hôm qua nhờ tình yêu của học trò mình. Cám ơn các em đã bước vào cuộc đời cô, và làm cho cô cảm thấy cuộc sống này đáng yêu biết bao nhiêu.
Một
Học trò buồn lắm, đến trường gặp cô, than về tình yêu và tình bạn. Em làm cô nhớ mình hồi 20 tuổi, lần đầu bị phản bội trong tình cảm, cả tình bạn lẫn tình yêu. Ngày ấy cô chẳng có ai, nên bây giờ cô mong làm hết sức mình để em không bị cô đơn như cô lúc ấy. Kết luận: tình bạn này không đáng giữ, tình yêu cũng không đáng luyến lưu. Thật hãnh diện khi em tuyên bố: cô đừng lo, em sẽ mạnh mẽ vượt qua tất cả, em có cô và các bạn mà. Câu nói này khó lắm em ơi, nhưng em nói được, và cô tin em sẽ làm được. Cô muốn rớt nước mắt vừa lo vừa mừng. Lo cho em sẽ buồn biết bao nhiêu, tình cảm chứ đâu phải vật chất, nói cắt là cắt hả em; mừng vì bài học đầu đời này sẽ tốt cho tương lai em lắm. Cô biết không thể bảo vệ em khỏi cạm bẫy cuộc đời, nhưng cô tin sẽ là cây gậy chống cho em những khoảnh khắc đớn đau, khó khăn nhất. Cô chỉ muốn vậy thôi à, em ơi.
Hai
Học trò thi xong, nhắn tin 'Cô ơi, tụi em đến cô chơi nghen.' Cô vội vàng về nhà, thông báo Gấu, 'Các anh chị sẽ đến chơi đó con.' Hai mẹ con chuẩn bị vừa xong thì lũ lâu la đến, rộn ràng cả nhà lẫn xóm. Cả đám kéo nhau tống 3 đạp xe đi ra hồ đá chơi. Gấu chạy scooter vòng vòng, làm le khi thấy các chị nhìn và khen, liên tục té lăn ra đất như Thành Long để lấy sự chú ý. Các chị thì ngồi băng đá ngắm Gấu, cười giỡn, nói vui, thích thú hưởng những cái nhìn vừa trêu chọc vừa ngưỡng mộ từ các chàng trai ở băng ghế xéo xéo đối diện. Ôi tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu, đẹp tự nhiên, tươi rạng rỡ mà chẳng cần phấn son, quần áo lụa là. Cô nhìn con và học trò, lòng thầm tự hào khi con có được những anh chị dễ thương như vậy trong cuộc đời. Tám năm dạy dỗ, tám năm yêu thương, bây giờ trái ngọt đầy cành, chỉ mong Gấu lớn lên cũng ngoan ngoãn dễ thương như học trò vậy.
Ba
Cùng nhau ngừng lại tiệm Bubble Tea để uống trà sữa. Chỉ có 3 cái ghế nên những người còn lại ngồi bệt xuống thềm, nói chuyện râm ran và uống nước. Gấu chạy tới chạy lui, làm hết trò này đến trò kia, không nhõng nhẽo mommy như thường ngày vì nhiều người xung quanh quá. Hôm nay nhờ có hai chị lạ cho nên không khí vui hẳn lên, ai đi ngang cũng nhìn nhóm người lộn xộn. Cô bán trà cũng cười ké với câu chuyện của học trò. Uống xong cô kéo học trò về nhà, như thường lệ tủ lạnh được dọn sạch sẽ, nồi cơm vét không chừa một hột, cuối cùng phải ăn thêm mì gói mới đủ bụng cho học trò. Tiếng cười nói ồn ào không làm Gấu bực mình. Ngược lại, anh chàng đã quen với cảnh này, chạy lại tìm anh này, chị kia, nói chuyện, đùa giỡn, chơi banh, rồi vào đánh răng với mommy. Gấu nhất định đóng cửa phòng tắm khi thay đồ hay pipi, thì ra đã biết mắc cỡ rồi. Cuối cùng ham chơi diều trên cầu thang nên Gấu té cái ầm, khóc, và lên ngủ. Cô cười dặn học trò tự nhiên rồi lên theo.
Bốn
Nhà vắng lặng khi học trò kéo về, mình cô ở lại với con trai, nhưng không hề cảm thấy buồn bã hay cô đơn. Chỉ hai tiếng đồng hồ ngắn ngủi với học trò, mà năng lượng cô tăng lên thấy rõ. Mười một tiếng đồng hồ làm việc căng thẳng như thoảng qua mà thôi. Học trò ơi, cô thật may mắn có con trong đời. Cô mong nhà cô là bến đỗ bình yên cho mấy đứa, là nơi con đến để đùa vui, học hỏi, cười và hạnh phúc. Cô mong cho con được một chốn trốn lánh những giông bão cuộc đời, dẫn có lúc mệt mỏi, trở trăn, vẫn có một người luôn yêu thương con vô bờ bến. Tối nay có tin học trò nam lớn nhất sẽ sang ngang, kiểu này dám năm sau cô lên chức bà mất thôi. Cô mong học trò hạnh phúc, dẫu cho những ngã rẽ có đưa con đến đâu đi nữa, cuối con đường cô vẫn chờ đợi con bất cứ khi nào con cần.
Cô đặt tên cho đoản khúc này là Ngày Bình Minh vì sự hiện diện của học trò trong đời cô. Để những khi tuyệt vọng, mệt mỏi, cô đọc lại mà nhớ rằng, cô sống không chỉ vì bản thân mình mà còn vì những thiên thần nhỏ của cô, học trò đáng yêu.
Wednesday, May 12, 2010
Có Thể Họ Cố Quên?
Bài Học Đầu Tiên
Năm ấy là năm thứ hai tôi đến Mỹ, cũng là mùa đầu tiên ra khỏi chương trình ESL, chương trình dành cho học sinh dùng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai. Đấy là lớp đầu tôi học chung với các học sinh bản xứ mà không có cô giáo phụ giảng người Việt Nam bên cạnh. Tôi run lắm, chui vào bàn trong góc lớp ngồi với hy vọng không ai để ý đến mình. Tôi còn nhớ bà giáo cao lớn, tóc màu hạt dẻ cắt ngắn đến cằm, nét mặt cứng cỏi lạnh lùng. Hồi ấy tôi thường thắc mắc tại sao các cô giáo trong ngành này đều có nét mặt khó ưa đến thế, xung quanh họ dường như luôn có một bức rào cản không muốn ai lại gần. Họ ăn nói trôi chảy, gãy gọn nhưng câu nào cũng chứa đầy sự mỉa mai. Với định kiến như vậy, tôi ít khi có cảm tình với những bà giáo trong ngành này, và nếu không có việc cần thì tôi tránh không tiếp xúc với họ. Chỉ đến khi vào đại học năm thứ ba, kiến thức được bồi bổ chút ít tôi mới nghiệm ra lý do của sự ‘khó ưa’ ấy. Hãy tưởng tượng một phụ nữ sẽ trở thành thế nào khi họ luôn phải tranh đấu với đám đàn ông chung ngành, những đồng nghiệp ngoài mặt tươi cười vui vẻ nhưng trong bụng thì khinh khỉnh, ra cái điều, ‘đàn bà biết quái gì về chính trị!’ Khi dấn thân vào ngành ấy, các bà phải chứng tỏ sự xuất sắc vượt bực trong lãnh vực chuyên môn, cũng như luôn phòng bị và tự vệ cho quyền được tôn trọng và đối xử bình đẳng.
Hôm ấy là giờ đầu tiên nên bà giáo dành trọn thời gian cho việc tìm hiểu học sinh trong lớp. Sau khi điểm danh, bà chia chúng tôi ra nhiều nhóm nhỏ và cho đề tài bàn luận, ‘nếu bạn có được quyền làm chủ một hòn đảo, thì luật đầu tiên bạn lập ra sẽ là luật gì?’ Cả lớp sôi nổi bàn cãi rồi đề cử người đại diện phát biểu. Khi đến phiên nhóm ngồi gần tôi, một chàng cao ngòng đứng lên dõng dạc:
- Hòn đảo chúng tôi sẽ là hòn đảo an bình nhất thế giới vì chúng tôi sẽ không cho một người phụ nữ nào tham gia vào chính quyền cả. Sẽ không ai quấy rối và đòi hỏi quá mức, sẽ không có một vụ xì-căng-đan chính trị đáng tiếc nào xảy ra, chỗ ở của đàn bà là trong bếp, và họ sẽ ở trong đó suốt đời trên hòn đảo chúng tôi.
Anh ta hùng hồn nói, giọng tự tin, khiêu khích và đầy miệt thị. Tôi ngơ ngác không tin và tai mình, đây là California, tiểu bang nổi tiếng trong vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ đến tối đa, mà sao lại có người như anh chàng này. Cả lớp nhốn nháo hẳn lên, đứa cười ầm ĩ tán thành, đứa nhíu mày phản đối, đứa trề môi thầm thì, ‘lại một kiểu chơi nổi để được nổi tiếng đây’ - một trò rất thường xảy ra ở high school. Nhìn nét mặt hắn, tôi rùng mình vì biết hắn nói thật lòng. Tai ù, ngực tức, và máu chạy dồn lên mặt vì giận dữ, tôi ước gì mình có đủ vốn liếng tiếng Anh để quạt cho hắn một trận.
Cả lớp im lặng dần theo cái khoát tay của bà giáo. Bà lạnh lùng nhìn hắn rồi lại nhìn vào sổ đầu bài, hỏi:
- Anh họ Nguyễn, nếu tôi không lầm thì anh là người gốc Việt Nam?
- Yes. Hắn nghênh mặt trả lời như muốn thách thức bà giáo, ‘là người gốc Việt Nam thì đã sao nào, có liên quan gì đến bà đâu?’
Bà giáo điềm tĩnh nói;
- Anh làm tôi rất ngạc nhiên. Người mở đầu lịch sử dân tộc anh là hai phụ nữ, anh không biết sao? Họ là những phụ nữ đầu tiên thành công trong công cuộc dành độc lập cho nước nhà. Họ cũng là những phụ nữ duy nhất trong lịch sử thế giới được tôn làm ‘Hoàng Đế.’ Thật ra không ít phụ nữ lên ngôi vua, nhưng chưa có ai trở thành Emperor cả. Không hiểu nếu như họ cứ ở trong bếp thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ?
Lời bà nói đến đâu lòng tôi mát rượi đến đấy. Hai Bà Trưng, bà ấy biết đến Hai Bà Trưng ‘của mình.’ Cả lớp lặng im trong khi mặt hắn ta chuyển từ đỏ sang tái rồi từ tái sang đỏ. Hắn cúi đầu nặng nề gieo mình xuống ghế. Một vài nụ cười chế giễu, vài cái xuỵt tế nhị. Chỉ vậy thôi rồi đại diện nhóm tiếp theo đứng lên phát biểu.
Bài học chính trị đầu tiên của tôi ở một xứ sở xa lạ bắt đầu như vậy đó. Để đáp lại sự kỳ thị và khinh thường của kẻ khác thì thái độ bình tĩnh, điềm đạm và kiến thức sâu rộng sẽ là vũ khí tốt nhất. Cũng may lúc ấy tôi chưa giỏi tiếng Anh, cứ tưởng tượng việc mình đứng lên cãi vả một hồi rồi oà khóc vì tức tối tôi lại tự ngượng với mình. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn thầm nhớ mãi người thầy lạnh lùng, ‘khó ưa’ ấy, người đã dạy tôi hãy luôn hãnh diện về nguồn gốc và giới tính của mình.
Tuesday, May 11, 2010
Thirty Five Years After The War, Betrayal is Vietnam's Story
Andrew Lam
New America Media
HANOI - A headline in a local paper here seems to say it all: “The Main Method is to Use Love.” The story: Women and Children trafficking activities along the Vietnam- China border. One of these “love methods” went something like this: A man from the city seduced a young woman from a village, then took her across the border to China after their wedding. When they got there, the honeymoon turned into a slave trade: the groom sold his naïve bride to a brothel, then promptly disappeared. Or it can be “familial love method:” The destitute widow whose farmer husband died in an accident decided to sell her daughter. What the daughter thought was going to be a shopping trip across the border to China to buy new clothes turned instead into a nightmare. The young woman was sold into a brothel and eventually resold to an old man as a child bride.
In both cases, the victims were undone by loyalty and love. For them the central theme that defines their lives is, inevitably, betrayal.
But betrayal is not simply the story of trafficked women and children, which has reached epidemic proportions. In a sense, it has become the story of Vietnam itself. Empires rose and fell, colonizers came and went, civil wars fought, and lives and lands devastated, but that central theme of being tricked, of being betrayed, continues to frame the history of this country.
There are, of course, many kinds of betrayals. Thirty-five years ago, the South Vietnamese Army (ARVN) was abandoned by the United States and its arms supplies dwindled to a few bullets per soldier at the end of the war, while the northern Communist tanks came rolling southward. Yet, betrayal is not restricted to those who lost the war. It plays itself out with even deeper irony among those who supposedly won. The Viet Cong –- guerillas in the National Liberation Front based in the South –- quickly found that they did not exactly “win” when Saigon fell. Within months, their units were dissolved or integrated under Hanoi commands, their own southern leadership forced into retirement. Though, of all factions, they suffered the highest casualties, the Viet Cong found themselves losing their autonomy and ending up playing underlings to northern leadership.
But many northern communist officials themselves were not saved from being betrayed either. Among a handful of well-known dissidents in exile is Colonel Bui Tin, the highest-ranking officer from Hanoi to enter Saigon at the end of the war to accept South Vietnam’s official surrender. Tin, as it turned out, fled Vietnam to France a decade or so later. The cause: he was dismayed with peacetime Communism in which re-education camps and new economic zones were created to punish the south, while untold numbers died out at sea as boat people. It was not what he’d expected when the North was trying to “liberate” the South from the Americans during the war. Tins’ books, "Following Ho Chi Minh: Memoirs of a North Vietnamese," and “From Enemy To Friend: A North Vietnamese Perspective on the War,” became a powerful testimony of Vietnamese corruption and arrogance, coupled with a passionate plea for democracy.
And even Ho Chi Minh, father of Vietnam’s Communism, it turned out, wasn’t safe from betrayal either. According to a few in Vietnam who knew the inner working of the party, Uncle Ho apparently spent the last few years of his life under house arrest, his lover murdered and children taken away from him. It is what the novelist Duong Thu Huong, now living in exile, wrote about in her latest book, “Au Zénith,” a novel based on the unofficial history of Ho Chi Minh’s last years. Huong herself knew betrayal intimately. Once a member of the youth brigade in the Communist movement, she later was under house arrest for her books criticizing Communism, especially in “Paradise of the Blind.” Government officials called her “traitor slut.”
Vietnam in the present tense is a Vietnam at the far end of Orwell’s dystopia, as parodied in Animal Farm, where “all animals are equal but some animals are more equal than others.” Corruption is rampant, and according to Asia Times Online, “land transfers have become critical issues in Vietnam. Some observers predict that, as in China, questionable state land reclamations could lead to widespread social unrest and derail Vietnam's socioeconomic development.” While Marxist Leninist theory is still being taught in schools and colleges, the poor farmers are often driven off their land for a pittance of compensation so that the rich and powerful can have their golf clubs. While impoverished women and children in rural areas are now commodities to be sold across the borders, often with the help of local officers, the city glints with new wealth, and high rises continue to sprout like mushrooms. One needs not look far to see it in Saigon. Billboard advertising for Chanel perfume and Versace bags are now overshadowing all the old Communist slogans romanticizing laborers and farmers and socialist paradise. Massage parlors are but a stone’s throw away from Ho Chi Minh’s cheerful bust in downtown Saigon, a city that’s renamed rather inappropriately after a man who championed austerity.
One recent evening out in the new part of Saigon’s district 7, at the ultra chic 3-storied restaurant called Cham Charm – built to resemble Angkor Wat with black granite and flowing water running down both sides of the sleek staircase –- there were Mercedeses and Lexuses and even a Ferrari and a Rolls Royce or two dropping by with paparazzi snapping photos at the entrance. It was the famed singer Hong Nhung’s birthday and wealthy friends -– mostly those connected to the current regime – were throwing a private party for her. Champagne flowed, wines were poured, and a splendid spread of oyster and sushi and lobster were served to a guest list of 350 VIPs. At one point, Nhung called her “comrades” to join her on stage, many of whom are now either multi-millionaires themselves, or married to them. Together they sang a Communist propaganda song –- something about marching to respond to the call of their nation. While waiters in bow ties served champagne, the projector showed images of Nhung’s past: A youth in Communist uniform, singing. No one sang songs about betrayal at the golden gala, of course, but still one could cut the irony with a silver spoon.
Not far from the gala, one aged musician in his ramshackle apartment said he was profoundly bitter: “Xa Hoi Chu Nghia (Socialist Republic) has turned into Co hoi chu nghia – (the society of opportunists.)” He once knew Uncle Ho and served him with devotion but now, in failing health, had become a vocal critic of the Hanoi regime. He is especially pained that Vietnam three years ago had ceded land to China along its northern border and even signed a multibillion dollar deal to plunder Lam Dong province, its once pristine verdant slopes for bauxite, destroying the ecosystem in the process.
More worrisome, the disputed Spratly Islands have fallen into China’s hand as well, leaving Vietnam’s waters vulnerable to Chinese domination. Rare mass protests in Vietnam have taken place but to no avail. “The government officials are corrupted to the core,” the aged musician observed. “All they bow down to is money. I wore my uniform and went out and protested. I’m sad to watch the government deceive its people year after year. If you give away land to China, you might as well sell the blood of the people.”
Which may explain why, in a world whose motto is “to make money is glorious,” and whose moral compass is thereby broken, children could be sold by their mothers, wives sold by their husbands, precious land on which precious blood spilled sold by the government. It would follow that in such a world those who hold on to old virtues suffer the most. It was reported that the girl who was sold by her mother, when rescued, said she didn’t blame her. She was willing to suffer for the family’s sake, she told social workers. And the patriotic old musician, once an idealist, now cries in his sleep. And the exiled dissidents watch in dismay as Vietnam is swallowed up by materialism.
The rest are rushing ahead at breakneck speed. Because to survive in Vietnam, so goes a new law of the land, one must first and foremost learn to betray the past.
NAM editor, Andrew Lam, is the author of Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora and the upcoming memoir: East Eats West: Writing in Two Hemispheres due out in September. He recently visited his homeland, Vietnam.
Chính Trị
Trịnh Hội
Về vấn đề này thật ra tôi thấy cũng khá là buồn cười. Vì chẳng hiểu sao trong thời gian gần đây tôi lại suy nghĩ nhiều về hai chữ ‘chính trị’ mặc dù ở cái xứ Phi Châu nắng như thiêu đốt này nơi tôi đang làm việc cho một cơ quan thiện nguyện, chính trị là một điều gì đó rất xa vời, rất mơ hồ và chẳng dính dáng gì đến việc làm hằng ngày của tôi. Nhất là những chuyện chính trị liên qua đến hai chữ Việt Nam.
Nhưng tôi suy nghĩ nhiều có lẽ cũng là vì sau một thời gian ở tại đây tiếp xúc với nhiều người nghèo khó, đói khổ tôi đã có dịp nhìn lại chặng đường mà tôi đã vừa bước qua, khi ở Mỹ, lúc ở Úc, ở Việt Nam và gạn lọc lại những điều mình đã học hỏi được trong suốt 5 năm kể từ ngày tôi từ Phi Luật Tân sang định cư ở Mỹ vào cuối năm 2004. Chuyện vui có đầy nhưng chuyện buồn tôi đoán cũng không hề thua kém ai.
Tôi nghĩ có lẽ đôi khi chúng ta cần phải đi đến một nơi rất xa, rất lạ và nhất là có nhiều thời gian suy ngẫm thì chúng ta mới có thể thấy rõ hơn, hiểu rõ hơn những gì đã và đang xảy ra trong cuộc sống. Như thể chỉ khi chúng ta thoát ra được khỏi cái vòng áp lực luẩn quẩn của bạn bè, của gia đình, xã hội, cộng đồng và đứng từ bên ngoài nhìn vào khi ấy chúng ta mới có thể đánh giá sự việc, có thể nhận xét vấn đề một cách toàn diện và khách quan hơn.
Hoặc cũng có thể vì trong thời gian gần đây tôi vừa nhận được một lời chê rất thẳng (và rất mạnh) từ một người bạn đã từng có một thời rất gần, rất thân với tôi trong quá khứ bảo là tôi chỉ là một thằng ngốc ngu xuẩn, a damn fool, rỗi hơi làm những việc tầm phào như tham gia vào một video clip ngắn nói về vấn đề trang mạng Facebook bị ngăn chặn tại Việt Nam hoặc đại diện cơ quan VOICE nộp đơn khiếu kiện chính phủ Việt Nam đã vi phạm các văn bản cam kết quốc tế về nhân quyền nên chẳng đặng đừng tôi buộc phải động não!
Người dưng nước lã không quen biết mình, không hiểu rõ những việc mình làm hay ý nguyện của mình nếu như họ có ý kiến phê phán, chê bai thì tôi thường coi như đấy là cái giá mà mình phải trả khi mình quyết định lên tiếng. Còn đằng này...
Rõ là sông có khúc, người có lúc. Và chính trị sẽ luôn là một trong những vấn đề có thể làm rạn nứt hoặc đôi khi làm hoàn toàn tan vỡ tình anh em, bạn bè chí thân.
Trong thời gian qua tôi đã có nhiều suy nghĩ về vấn đề này là vì thế. Tôi nghĩ về những gì đã vừa xảy ra trong năm vừa qua lẫn những gì đã xảy ra cách đây đúng ba năm về trước khi lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là bị tẩy chay, bị một số người trong cộng đồng cho là thân cộng chỉ vì tôi không đồng ý rút tên ra khỏi chương trình của một đại nhạc hội bên Úc mà trong đó có một vài anh chị em nghệ sĩ từ Việt Nam sang dự định trình diễn chung.
Ðối với tôi sự việc lúc ấy rất đơn giản. Tôi không đồng ý với nhận định của ban đại diện cộng đồng và vì thế đã viết bài nói rõ tại sao tôi không đồng ý. Sau đó thì đường ai nấy đi. Ai thích thì đến xem. Ai không thích thì không cần đến. Tôi đã nghĩ vậy. Tôi đã ngây thơ nghĩ là nếu mình không làm chính trị và cũng chưa bao giờ làm chính trị thì cuối cùng chắc chắn sẽ không có điều gì đáng tiếc xảy ra. Vì dù sao đi nữa thì tôi và những anh em nằm trong ban đại diện cộng đồng lúc ấy đều là những người đã quen biết nhau rất lâu năm và họ hơn ai hết hiểu rõ tôi là ai, đến từ đâu và đã làm những gì suốt 10 năm trong các trại tỵ nạn ở Hồng Kông và Phi Luật Tân ngay cả trước khi tôi tốt nghiệp ra trường.
Nhưng tôi đã lầm.
Lầm to là đằng khác.
Vì từ khi tôi quyết định không rút tên theo như lời yêu cầu mà hơn thế nữa lại 'dám' viết thư lên tiếng phản bác lại những nhận định của ban đại diện thì vô hình trung việc làm ấy đã bị cho là tôi đang làm chính trị hay có thái độ chính trị. Và cho dù tôi có cố cách mấy thì những mối dây liên hệ thân tình cũng đã bị hoàn toàn cắt đứt không thể nào hàn gắn được kể từ lúc ấy.
Không những thế tôi cũng đã quá chủ quan về vấn đề cần tranh cãi trong chừng mực, sẽ không có những lời phát biểu mang tính cách hạ nhục, mạ lỵ và hơn thế nữa sẽ không có chuyện dựng lên không nói có, có nói không như tôi đã từng chứng kiến trước đó giữa hai bên chưa hề quen biết nhau.
Nhưng tôi cũng đã lầm qua nhận định này. Vì kể từ lúc tôi chính thức lên tiếng, đó cũng là lúc mà tôi được nghe và được đọc những bài viết phản bác lại ý kiến của tôi hay tư cách cá nhân của tôi kể cả thông cáo của chính ban đại diện cộng đồng lên án tôi vì tôi là người đứng ra tổ chức đại nhạc hội.
Trời! Từ một vai trò làm MC trong chương trình tôi đã được biến thành một ông bầu trong tích tắc.
Hai chữ chính trị nó quan trọng và nguy hiểm là vì thế.
Và sau ba năm kể từ ấy trong đó có một khoảng thời gian khá dài tôi sống và làm việc tại Việt Nam, tôi đã cố nghĩ làm thế nào để bốn chữ 'hòa hợp, hòa giải' có thể tồn tại và phát triển giữa hai thái cực, giữa những người chống cộng cực đoan và những người cộng sản độc tài, bất chính?
Khó. Rất khó tôi nghĩ. Vì không những họ hoàn toàn không biết nhau, không thể nhân nhượng nhau mà họ còn có quá nhiều quá khứ đan xen vào nhau không thể nào một sớm một chiều có thái độ khách quan được. Ðã thế bây giờ lại có thêm hai yếu tố mãnh liệt đó là tiền bạc và quyền lực.
Ðấy là chưa nói đến một thành phần lớn khác đã trưởng thành sau chiến tranh ở ngoại quốc hay ở Việt Nam như thế hệ của chúng tôi. Cũng cứng đầu, ngoan cố và có lý tưởng của riêng mình. Thế mới chết.
Khó. Khó lắm bạn ạ. Nhất là khi chúng ta bàn đến những chuyện chính trị liên quan đến hai chữ Việt Nam. Nhưng biết phải làm sao bây giờ khi ngày 30 tháng 4 một lần nữa nó lại đến!
Sunday, May 9, 2010
Ba Bức Ảnh, Một Cuộc Chiến
Đức Hà
Chiến tranh Việt
Mậu Thân 1968 - Khi Eddie Adams chụp được ảnh Tướng Nguyễn Ngọc Loan nổ súng vào đầu một cán binh Cộng Sản bị bắt làm tù binh thì không phải chỉ một người chết mà đến hai người. Tác giả Adams viết trên tuần báo Time: “Viên tướng giết lính Cộng; Tôi giết viên tướng với chiếc máy hình …” điều mà sau này
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 - Ngày 08 tháng Sáu, 1972, nhiếp ảnh gia chiến trường Huỳnh Công Út được hãng AP phân công đi thu thập hình ảnh chiến sự trên Quốc Lộ 1 hướng về biên giới Kampuchia nơi đang có giao tranh tại khu vực gần Tây Ninh. Khi đến Trảng Bàng, xe chở ông Út bị tắc nghẽn bởi hàng đoàn xe của cả quân sự lẫn dân sự do địch quân đắp mô phía trước và vẫn còn kiểm soát một đoạn của QL1 trong khi các đơn vị của Sư Đoàn 25 đang càn quét giải tỏa các ngôi làng hai bên lộ. Ông Út gia nhập với toán quân bộ binh để làm nhiệm vụ. Đến khoảng 1 giờ trưa bộ binh gọi phi pháo yểm trợ. Hai chiếc Skyraider xà xuống tọa độ được chỉ điểm gần Thánh Thất Cao Đài và liên tục thả bom nổ, bom xăng napalm, kể cả bắn đại bác. Khói bay mịt mù, tia lửa bắn ra như sao băng, tiếng nổ vang động. Và theo lời tường thuật của Horst Fass và Marianne Fulton trong bài “The Bigger Picture,” không ai nghe tiếng được tiếng súng phòng không bắn trả. Nhưng khi phi cơ đã bay xa thì hàng chục dân làng, quần áo tả tơi, mặt mày hoảng sợ bỗng xuất hiện từ vùng bị dội bom và chạy xối xả về phía quân bạn, nơi nhóm các nhà báo đang chực sẵn. Trả lời phỏng vấn năm 1999, Nick Út kể: “Khi nhóm phóng viên chúng tôi tiến gần đến ngôi làng, chúng tôi thấy đám dân làng đầu tiên chạy ùa ra. Tôi thầm nghĩ ‘Ôi Trời đất’ khi bất ngờ thấy một phụ nữ với chân trái bị napalm đốt cháy tệ hại. Kế đó là một phụ nữ khác bồng bế đứa con - đã chết, rồi một bà nữa bế con nhỏ da cháy nám rớt ra từng mảnh. Khi tôi dương máy chụp những bức ảnh này tôi nghe tiếng khóc thét của một em bé và thấy bé gái vừa chạy vừa ném bỏ hết quần áo đang cháy trên người. Bé gái gào hét gọi nguời anh trai chạy bên trái. Trước khi máy bay bỏ bom, toán lính bộ binh đã kêu to gọi các em nhỏ chạy nhanh nhưng đã quá trễ.”
Ông Út kể tiếp: “Khi bé gái thấy tôi, bé nói ‘nóng quá, nóng quá’ và xin nước uống. Tôi lấy nước cho bé uống và nói thêm là sẽ tìm cách giúp bé. Tôi bồng bé lên và đưa về chiếc xe của tôi, rồi phóng nhanh hướng về bệnh viện Củ Chi, cách đó một giờ đồng hồ. Bệnh viện lại có quá nhiều thương binh, người sống người chết, họ chẳng màng đến bé gái. Tôi nói với họ “Tôi là một nhà báo, hãy làm ơn giúp bé gái này, tôi không muốn em chết.’ Thế là bé gái được chăm sóc ngay.”
Cô gái chín tuổi trong hình tên Phan Thị Kim Phúc. Sau 14 tháng nằm bệnh viện với 17 lần lên bàn giải phẫu, Kim Phúc trở về làng cũ ở Trảng Bàng. Ông Út, năm đó 21 tuổi, đã dùng hai máy ảnh để ghi nhận bức ảnh đoạt giải Pulitzer 1972 – một Leica và Nikon với ống kính dài. Nhưng bức ảnh gây chấn động thế giới đó đưa đến hai sự kiện. Nhằm mục đích tuyên truyền, chính quyền Hà Nội dùng lá bài Kim Phúc cho chiến dịch quảng bá phong trào chống chiến tranh. (Ghi chú: Chỉ bốn năm sau Việt
Tháng Tư, 1975 – Hôm đó là thứ Ba 29, tháng Tư, phóng viên ảnh Hugh Van Es, gốc Hòa Lan và làm việc cho hãng tin UPI ở Sài Gòn. Ông dùng máy ảnh Nikon, gắn ống kính 300 mm và chĩa về phía nóc nhà kế cận, nơi một chiếc trực thăng của Air America đang chuẩn bị di tản một nhóm hành khách - để rồi ra trở thành cuộc di tản quy mô nhất bằng máy bay trực thăng trong lịch sử. Đó là bức ảnh ghi dấu chương cuối của miền Nam Việt
Điều thú vị là 30 năm sau, nhiếp ảnh gia Van Es đã trở lại Việt Nam để viếng thăm những nơi ông và đồng nghiệp từng công tác như đồi Hamburger Hill … Ông kể rằng khi viếng Nhà Bảo Tàng Tội Ác Chiến Tranh, ông thấy bản sao của một bức hình do chính ông chụp ghi nhận cảnh binh lính đơn vị nhảy dù Mỹ 173rd Airborne đang tiến quân thì chú thích tại nơi triển lãm lại đề ngược là “đang tháo chạy.” Ông Van Es cho giới chức liên hệ xem bản gốc với yêu cầu sửa lời chú là “đang tiến quân”. Lẽ dĩ nhiên ông bị từ chối. Phát biểu về vấn đề này ông nói: “Tôi chụp những bức hình đó cho thế hệ mai sau, cho lịch sử, và tôi không cho phép họ xuyên tạc lịch sử nhằm mục tiêu tuyên truyền.” Ông nói thêm rằng “vết thương chiến tranh cần nhiều thời gian để hàn gắn. Vào lúc nào đó, tôi sẽ cố gắng lần nữa.”
1975 – 2010 – Eddie Adams qua đời năm 2004, Hugh Van Es năm 2009, Huỳnh Công Út vẫn gắn bó với Associated Press. Hoa Kỳ bỏ cấm vận (1994) và tái lập bang giao với Việt