Tuesday, December 21, 2010

Rủi Ro Khi Lái Xe Mà Nói Điện Thoại

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
http://www.bsnguyenyduc.com


Ngày thứ Ba, 12/1/2010, bà Janet Froescher, Chủ tịch tổ chức National Safety Council tại Hoa Kỳ phổ biến một báo cáo cho biết mỗi năm ít nhất có 1.6 triệu trường hợp đụng xe ( khoảng 28% trong tổng số các tại nạn xe cộ) là do điện đàm + lái xe (1.4 triệu vụ) và nhắn tin texting (200.000 vụ). Bà kết luận là các tai nạn này đều có thể tránh được và nếu không làm gì để giải quyết ngay từ bây giờ là điều rất đáng trách.
Tại Hoa kỳ, hiện nay có khoảng 100 triệu điện thoại di động, thì 85% chủ nhân ông đều sử dụng khi lái xe. Họ đã tận dụng thời gian ngồi trên xe rồi điện đàm hoặc dùng vi tính để giải quyết công việc. Thực là tiện lợi, nhưng mặt trái của sự việc cũng có nhiều ảnh hưởng không tốt tới khả năng điều khiển tay lái, cũng như quan sát sự vật xung quanh.
Theo tập san y học New England Journal of Medicine số tháng 2 năm 1997 thì rủi ro tai nạn do lái xe + nói cell phone tương đương lái xe + say rượu với mức độ cồn trong máu ở giới hạn hợp pháp (blood alcohol level at the legal limit).
Nghiên cứu tại Trung tâm Phân Tích Rủi Ro, Đại học Harvard (Harvard Center of Risk Analysis) cho hay, hàng năm tại Hoa Kỳ, lái xe + điện đàm gây ra 636.000 vụ đụng xe, 333.000 thương tích với 12.000 thương tích nặng, 2600 tử vong và tổn phí chung lên tới 43 tỷ mỹ kim.
Các khoa học gia tại Ðại học Johns Hopkins, Baltimore Hoa Kỳ đã nghiên cứu hoạt động của não bộ khi làm hai việc một lúc. Kết quả cho thấy khi não chú tâm vào sự nhìn thì khả năng nghe hơi giảm đi một chút. Do đó họ khuyên là không nên vừa nói vừa nhìn đường trong khi lái xe. 
Tháng 7 năm 2009,Viện Kỹ Thuật Giao Thông Virginia ( Virginia Tech Transportation Institute) công bố kết quả nghiên cứu cho hay tai nạn khi lái xe + bấm nhắn tin (texting) tăng 23% so với không nhắn tin.
Trong khi đó, Pew Internet & American Life Project thực hiện thăm dò vào mùa Hè năm 2009 cho biết có khoảng 26% thiếu niên tuổi 16-17 lái xe + bấm nhắn tin, 43% lái xe + điện đàm.
Kết quả nghiên cứu do Donald Redelmeier và Robert Tibshirani tại Đại học Toronto, Canada, cho hay điện đàm + lái xe sẽ gây ra tai nạn nhiều hơn khi không điện đàm từ 4 tới 5 lần, và nói với tay không cầm điện thoại hand-free cell phone có vẻ cũng không an toàn hơn. Theo nghiên cứu này thì tai nạn xảy ra là do giảm sự chú ý khi vừa lái vừa nói, hơn là sự khéo tay, tài nghệ lái. Nghiên cứu cũng chi tiết thêm rằng:

-Rủi ro tai nạn 5 lần nhiều hơn bình thường khi tài xế nói trong 1 hoặc 5 phút trước khi tai nạn xảy ra.
-Tỷ lệ đụng xe 4 lần cao hơn bình thường khi điện đàm bắt đầu 15 phút trước khi có tai nạn.
-Rủi ro tai nạn thường xảy ra 15 phút sau khi tài xế ngưng nói
-Tài xế trẻ hoặc già đều có tỷ lệ rủi ro như nhau khi lái xe lại điện đàm.

Thời gian phản ứng (reaction time) của tài xế cũng thay đổi: Lái xe + điện đàm, thời gian này chậm hơn bình thường tới 50%, khi say rượu chỉ có 30%.
Những rủi ro khi điện đàm + lái xe:

-Gây bối rối, lãng trí người đang lái xe khiến cho họ không tập trung nhìn làn đường trong khi nói và quay số điện thoại;
-Giảm khả năng điều khiển, kiểm soát động tác lái xe. Tài xế say mê với điện đàm mà lơ đãng việc điều khiển tay lái, đưa tới rủi ro cho người trên xe và khách bộ hành.
-Giảm sự chú ý của tài xế với mọi sự việc đang diễn ra trên đường phố ở xung quanh.
-Không lái đúng trong lằn đường quy định
-Không giữ được tốc độ cố định thích hợp
-Không giữ khoảng cách an toàn với xe phía trước
-Phản ứng với các biến cố thường chậm lại
-Giảm khả năng nhận xét về an toàn xa lộ, dấu hiệu chỉ đường.

Thường thường, khi lái với tốc độ 70 mile/giờ (112 km) cần một khoảng cách là 46 feet (14 thước) để tài xế có đủ thì giờ bắt đầu phản ứng với chuyện xảy ra trước mắt. Nếu điện đàm, dù là lái với 2 tay, tài xế cần khoảng thêm khoảng đường 26 feet ( gần 8 thước) để phản ứng, so với không điện đàm.
Ngoài ra đang lái xe mà nói quá nhiều, ăn uống luôn miệng luôn tay, trang điểm má phấn môi son là những giây phút lơ đãng rất ư là tai hại.
Ðã có tới 40 quốc gia trên thế giới ban hành luật cấm dùng điện thoại di động khi lái xe, như Pháp, Anh, Trung Hoa, Nhật Bản, Nam Hàn, Thụy sĩ, Đức, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Gia Nã Đại...
Riêng tại Hoa Kỳ, hiện nay có 7 tiểu bang cấm cầm cell phone để nói chuyện trong khi lái xe. Đó là California, Connecticut, New Jersey, New York, Oregon, Utah, tiểu bang Washington cộng thêm District of Columbia. Trong khi đó đã có 18 tiểu bang + District of Columbia cấm nhắn tin + lái xe.
Tháng 10 năm 2009, Tổng Thống Hoa Kỳ Barrack Obama đã ký sắc lệnh cấm nhân viên dân chính, quân sự liên bang sử dụng điện thoại di động khi lái xe thi hành công vụ, với xe, điện thoại công hoăc cá nhân.

Lái xe mà có điện thoại di động để khi khẩn cấp có phương tiện thông tin, cấp cứu, cũng là điều thuận lợi. Tuy nhiên, đang điều khiển xe mà điện đàm tâm sự ba hoa thì tai nạn cũng dễ dàng xẩy ra với tử vong cho người lái và người khác.
Đã có nhiều vụ kiện do người vừa lái xe vừa nói điện thoại rồi gây ra tai nạn và sự bồi thường lên rất cao. Tháng 12 năm 2007, một công ty tư nhân đã phải điều đình bồi thường những 5.2 triệu mỹ kim cho một phụ nữ tại Georgia, vì bà bị thương tích đụng xe do tài xế của công ty vừa điện đàm + lái xe.
Bài học căn bản về lái xe là:
-Cần luôn luôn đề cao cảnh giác, thận trọng với tác phong lịch sự.
-Đầu hướng về phía trước, mắt vừa nhìn đường vừa ngó kính chiếu hậu và quan sát người lái chung quanh.
-Tôn trọng luật đi đường, giới hạn tốc độ và mang nịt an toàn.
Nếu lại dùng cell phone thì cũng tốt thôi, vì phương tiện này có nhiều ích lợi thực tiễn: giúp ta liên lạc với nhau, giải quyết vấn đề cấp bách và mang lại cấp cứu cho ta cho người khi hoạn nạn.
Chủ nhân xe vận tải hành khách cũng như hàng hóa đều quan tâm tới việc tài xế vừa lái vừa điện đàm: họ có thể gây ra tai nạn và chủ xe cũng có phần trách nhiệm dân sự vì đã không đặt quy luật dùng điện thoại cho tài xế. Phía thùng xe sau những xe này đều có hang chữ "Tôi lái xe đàng hoàng không?" với số điện thoại của công ty để người khác có thể kêu, báo cáo hành vi tài xế.
Do đó, khi phải dùng điện thoại khi lái xe, cũng nên để ý mấy điều sau đây:

  1. Điện thoại bây giờ có nhiều nút, nhiều cách dùng phức tạp nhưng nếu làm quen được với chúng thì lại rất có lợi. Chẳng hạn nút kêu khẩn cấp, nút kêu lại tự động, nút số điện thoại thường kêu... mà khi cần, chỉ việc nhấn nút là nói chuyện được.
  2. Sắm thêm trang bị phụ để khỏi phải dùng tay cầm điện thoại áp vào tai, dành hai tay cho bánh lái. Hiện nay có nhiều trang bị phụ như giá cài điện thoại vào xe, dây điện thoại gắn vào tai, ống nghe không dây...Vừa an toàn hơn mà vừa tránh được rủi ro gây ra do phóng xạ từ điện thoại.
  3. Ngay khi lên xe là để điện thoại gần chỗ mình ngồi, dễ lấy, không phải quay mình ra sau, đảo mắt tìm kiếm.
  4. Đang nói chuyện mà thấy có bất an lưu thông như tai nạn trước mặt, mưa to chợt đổ xuống, nhiều xe cộ qua lại... thì xin lỗi đối tượng rồi ngưng nói, chú tâm vào đường xá, lưu thông.
  5. Đang lái xe mà cần khẩn cấp dùng điện thoại thì táp vào lề đường hoặc nơi an toàn, khóa cửa xe rồi quay số.
  6. Giới hạn quay số điện thoại khi đang lái. Quay số khi xe ngừng nơi đèn đỏ hoặc bảng stop. Nếu cần lắm thì quay một nửa các con số, nhìn đường rồi quay tiếp.
  7. Không ghi chép, tìm số điện thoại, đọc danh sách việc cần làm trong khi lái xe.
  8. Tránh nói chuyện gây nhiều xúc động mạnh trong lúc vừa lái vừa nói vì ta rất dễ bị chia trí, gây ra tai nạn. Tránh hào hứng, ba hoa tán hươu tán vượn qua điện thoại khi đang lái xe. Để gặp nhau, tha hồ mà phát ngôn.
  9. Lái xe trên lằn đường bên phải trong khi dùng điện thoại, như vậy chỉ cần để ý tới giao thông ở phía trái thôi; Dùng di động khi gặp trường hợp khẩn cấp: đây là phương tiện rất hữu ích để bảo vệ mình và gia đình khi có rủi ro xẩy ra. Ta có thể kêu cấp cứu với cơ sở y tế, cảnh sát giao thông...
  10. Dùng di động để giúp đỡ người khác khi họ gặp tai nạn, khó khăn.

Kết luận
Mark Edwards, Giám đốc An Toàn Giao Thông của công ty Bảo hiểm Xe hơi Hoa Kỳ nhắc nhở "Các nghiên cứu cho hay khoảng từ 20-50% của tổng số các vụ đụng xe tại Hoa Kỳ đều có nguyên nhân là sự không chú tâm của người lái".
Ngày nay, cell phone đã trở thành một phần của nếp sống con người. Nhưng dùng chúng một cách an toàn và khôn ngoan là một thói quen tốt mà mọi người nên có.
Phải chi mà ai ai, và ngay bản thân mình, cũng cẩn tắc vô áy náy như vậy thì đỡ việc cho mấy chủ nhân nhà hòm biết mấy!

Monday, December 13, 2010

Hỏi – Đáp: Ung Thư Tuyến Tiền Liệt

Hiệp hội Ung Thư Hoa Kỳ vừa đưa ra lời cảnh báo về các cuộc thí nghiệm y khoa truy tìm bệnh ung thư tuyến tiền liệt hoặc nhiếp hộ tuyến nơi phái nam và nói rằng làm thí nghiệm đều đặn chưa hẳn là tốt và có thể gây hại nhiều hơn lợi. Hiệp hội không khuyến cáo phái nam phải làm thử nghiệm này một cách nguyên tắc từ thập niên 1990, và điều này không thay đổi. Nhưng hội kêu gọi các bác sĩ hãy trao đổi thẳng thắn với bệnh nhân về nguy cơ và giới hạn của thí nghiệm truy tìm chất antigen PSA - prostate specific antigen.
Hai cuộc nghiên cứu trong năm qua gợi ý rằng làm thí nghiệm PSA không nhất thiết cứu sống bệnh nhân, và nếu có lợi thì cũng phải trả giá khá đắt. Thí nghiệm y khoa PSA thường phát hiện những bứu nhỏ phát triển quá chậm để có thể trở thành ác tính gây tử vong. PSA có thể cho những kết quả dương tính sai để sau đó đưa đến làm sinh thiết (biopsie) không cần thiết. Vì kết quả không chính xác nên có thể đưa đến cách chữa trị khiến bệnh nhân trở nên vô sinh và không kiểm soát được việc tiểu hay đại tiện.
Sau đây là những câu hỏi – đáp về vấn đề này chuyển dịch từ trang nhà của American Cancer Society trụ sở tại Atlanta, Georgia.

H: Khuyến cáo hiện nay như thế nào?
Đ: Cơ bản không có gì thay đổi: làm thí nghiệm PSA theo nguyên tắc không cần thiết cho phần lớn phái nam. Trước khi làm PSA bác sĩ nên trao đổi về những bất lợi và thuận lợi với bệnh nhân
H: Khi nào nên thảo luận với bác sĩ?
Đ: Bình thường khi tới tuổi 50; 45 cho người có nguy cơ cao và người có thân nhân bị ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) trước 65 tuổi; và 40 cho người có nhiều thân nhân bị UTTTL trước 65.
H: Các phương pháp thanh lọc UTTTL từ trước có gì sai?
Đ: Thường là thử máu và khám nghiệm cơ thể. Cả hai đều không chính xác và không có chứng minh khẳng định việc phát hiện sớm sẽ sống thọ. Kết quả thí nghiệm có thể đưa đến việc chẩn bệnh quá chi tiết và từ đó ấn định cách chữa trị không cần thiết những bứu nhỏ có thể sẽ chẳng gây nguy hại nào.
H: Nếu bác sĩ không có thời gian thảo luận thì sao?
Đ: Hội ung thư gợi ý các tài liệu trợ giúp như cẩm nang, video, trang web … trong đó có giải thích về điểm lợi và bất lợi khi làm thí nghiệm y khoa truy tìm UTTTL và giúp bệnh nhân chọn lựa và chấp nhận những phản ứng phụ.
H: Nếu chấp nhận hậu quả và vẫn muốn làm thí nghiệm PSA thì sao?
Đ: Thí nghiệm phải bao gồm thử PSA, còn khám nhiệm kỷ thuật số đường hậu môn không bắt buộc.
H: Khó hiểu quả. Nếu không quyết định được thì sao?
Đ: Có thể để bác sĩ quyết định.

Xem chi tiết về thí nghiệm PSA tại đây: http://www.healthdialog.com/Main/default

Sunday, November 28, 2010

Từ Lò Đường đến Bánh Mì Lee’s

Đức Hà
Việt Mercury

Bài phóng sự "Bánh Mì Thịt Làm Nên Sự Nghiệp" về hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh Lee’s Sandwiches được đăng trên tuần báo Việt Mercury ngày 4 tháng Bảy, 2003 là bài viết duy nhất trong đó lần đầu tiên ông Lê Văn Bá nhận trả lời phỏng vấn của một cơ quan truyền thông Việt ngữ. Được nhật báo Mercury News so sánh như một Raymond Albert “Ray” Kroc – trùm hệ thống McDonalds, của người Việt, ông Bá và các người con đã khai trương hệ thống nhà hàng Lee’s Sandwiches với hơn 30 địa điểm khắp California và nhiều cửa tiệm ở bốn bang khác. Tin cho biết ông Bá qua đời hôm 23 vừa qua tại San José, thọ 79 tuổi.



Người Việt thích ăn bánh mì thịt. Sáng, trưa, chiều, tối, khuya, nửa đêm về sáng, dù buồn hay vui, dù nghèo hay khá giả, dù share phòng hay nhà trên đồi có view, dù ăn thất nghiệp hay lãnh lương sáu số … lúc nào cũng có thể ăn ổ bánh mì kẹp thịt. Mà ăn ngon lành vì nóng dòn, rẻ tiền và có đầy đủ vị chua cay mặn ngọt bùi. Vì vậy khi di dân sang Mỹ, bánh mì thịt - hương vị bánh mì bưu điện Sài Gòn trước 1975, cũng được mang theo và có mặt tại bất cứ nơi nào có người Việt định cư.
San Jose có hàng chục cửa hàng bán bánh mì thịt nguội. Từ một tiệm, một chủ, hệ thống hai, ba tiệm một chủ, và quy mô đến hàng chục tiệm cũng cùng một chủ đã trở thành những địa điểm cung cấp món thức ăn nhanh, gọn, hạp khẩu vị Việt với giá cả nhẹ nhàng trong mọi hoàn cảnh kinh tế.
Tuy nhiên nếu có tiệm chủ yếu vẫn nhắm vào khách hàng người Việt thì hệ thống Lee’s Sandwiches với bảy tiệm đang hoạt động và năm tiệm nữa sẽ khai trương từ nay đến cuối năm thì khách hàng cần phải tranh thủ là những sắc dân khác không phải người Việt.
“Muốn phát triển rộng thì cần phải tiếp cận với khách hàng giòng chính, tạo một hình ảnh tốt cho người tiêu thụ thuộc các sắc dân khác và một khẩu vị thích hợp,” ông Lê Văn Hướng, 46 tuổi, phụ trách kế hoạch của công ty Lee’s cho biết.

Hình ảnh mới về một tiệm bánh mì của người Việt được khởi sự tại Bolsa, khu phố chính của người Việt tại miền Nam California và đang được nhân rộng để có thể có mặt khắp nước Mỹ trong thời gian sắp tới.
“Hướng đi trong tương lai của Lee’s là có mặt khắp nơi, như McDonald’s, hay Subway của Mỹ để mang khẩu vị đặc biệt của bánh mì thịt Việt Nam phục vụ mọi sắc dân.”
Thành quả ngày hôm nay của Lee’s là kết quả của những nỗ lực, những cần cù và lao động không mệt mọi từ mọi người trong gia đình họ Lê. Công khó được đền đáp khi Lee’s trở thành hệ thống cửa hàng bánh mì thịt lớn nhứt của người Việt ở California với doanh thu hàng năm trên 10 triệu đô la.

Lò Đường Vĩnh Phước

Vượt biển đến Mỹ năm 1979 và để lại Việt Nam một gia tài khổng lồ, gia đình họ Lê ở Long Xuyên đã phát triển ngành xe lunch và tiệm bánh mì thịt từ con số không thành một hệ thống quy mô khắp California với tài sản ước lượng khoảng 50 triệu đô la.
“Nếu so với cơ ngơi của ông già hồi còn ở Việt Nam, thì thành quả hiện nay của chín anh em trong gia đình cộng chung cũng chưa bằng,” ông Lê Văn Hướng, người con thứ hai của ông Lê Văn Bá cho biết.
Với người Miền Tây, vùng Long Xuyên Thốt Nốt lò đường của ông Bá được xem là lớn nhứt thời trước năm 1975.
“Mới 16 tuổi tôi đã đi buôn chuyến từ Long Xuyên lên Sài Gòn, rồi chuyển sang nghề nấu rượu, thầu dịch vụ bến đò cho đến năm 1961 thì khai trương lò đường,” ông Bá, năm nay 71 tuổi kể lại từ văn phòng mới của tổng công ty Lee’s đặt tại Saigon Business Center khánh thành hồi tháng trước.
Ông nói rằng nghề dạy nghề và đi nhiều nơi học hỏi đã giúp ông trở thành nhà kinh doanh thành công ở Miền Tây với hệ thống lò đường, nhà máy nước đá và cả một đội xe tải riêng. Với hàng trăm tấn đường thẻ sản xuất lúc bấy giờ, lò đường Vĩnh Phước cung cấp đến 30% nhu cầu đường cho Miền Tây. Tuy nhiên sau năm 1975 tất cả đều trở thành tài sản nhà nước và đến năm 1979 thì hoàn toàn tê liệt.
“Những người tiếp quản hầu như chẳng biết gì về nghề làm đường mặc dù được chỉ vẽ đầy đủ.”
Ông Bá kể lại rằng với chức vụ phó giám đốc, ông được mời đi tham quan Hà Nội và những điều trông thấy tận mắt đã khiến ông quyết định phải … ra đi.
“Chuyến đi thăm Hà Nội năm 1976 làm tôi hãi sợ và có quyết định ngay là phải đưa hết cả gia đình ra đi càng sớm càng tốt.”

Xe Lunch Lee Bros

Không phải tự nhiên mà tháng Năm vừa qua, cơ quan quản trị ngành tiểu thương Hoa Kỳ SBA văn phòng San Francisco đã trao tặng giải thưởng SBA 2003 Entrepreneurial Success Winners cho Lee Brothers Foodservices và Lee’s Sandwiches. Bằng tuyên dương của SBA nói rằng hệ thống Lee’s đã có những đóng góp lớn lao cho sự phồn thịnh của California và mang lại công ăn việc làm cho hàng ngàn người. Và cũng như lò đường bên Việt Nam, cơ sở mới của hệ thống Lee’s cũng bắt đầu từ không thành có.
Khởi đầu sự nghiệp tại Hoa Kỳ với chân phụ việc trên một chiếc xe lunch cung cấp thực phẩm cho trường học năm 1981, ông Lê Văn Chiêu, người con trưởng trong gia đình đã phát triển thành Lee Brothers Foodservice, một hệ thống cung cấp thực phẩm quy mô với 500 xe và hơn 1,000 nhân viên hoạt động khắp Vùng Vịnh.
“Những ngày đầu làm xe lunch của anh em chúng tôi cũng hệt như những ngày đầu của thời ba chúng tôi đi buôn bên nhà. Chủ yếu là sức lao động,” ông Chiêu, 47 tuổi nhớ lại thời kỳ đầu khi ông nấu và vợ ông, bà Lê Quách Ngọc Yến lái xe từ hãng xưởng này qua công ty khác ở San Jose mang thức ăn trưa đến cho mọi người.
Không đầy hai năm sau, công ty có hơn 10 chiếc để sau cùng lên đến trên 500 chiếc hoạt động hoàn toàn độc lập.
“Chúng tôi giúp anh em tự làm chủ chiếc xe của mình, công ty chỉ cung cấp hàng và bến đậu ban đêm.”
Bước đi của Lee Brothers Foodservices đã được đồng hương người Việt nhanh chóng noi theo để hiện nay nắm trọn ngành xe lunch tại vùng Bắc California với sáu công ty của người Việt.
Cùng lúc với xe lunch, công ty Lee’s cũng đầu tư vào ngành địa ốc và tham gia rất nhiều vào các sinh hoạt cộng đồng như đóng góp cho các chương trình cứu trợ lũ lụt, các hoạt động bảo tồn văn hóa kể cả các buổi gây quỹ cho các chính trị gia Mỹ và Việt.

Bánh Mì Thịt

Trong khi người con trưởng bành trướng hệ thống xe lunch thì ông Bá và vợ bà Nguyễn Thị Hạnh dốc toàn lực vào việc gầy dựng tiệm bánh mì trên đường King. Ông Bá kể lại:
“Đầu tiên chúng tôi làm nhà hàng trên đường Mười Ba, rồi lấy hàng của ông Ba Lẹ bán trên xe lunch, sau cùng thì chúng tôi mở tiệm bánh mì đầu tiên trên đường King.”
Thành công của tiệm Lee’s đã đưa đến sự xuất hiện một loạt các tiệm bánh mì thịt khác như Hương Lan, Thanh Hương, Đa Kao ... Trong khi đó tại Hawaii cũng xuất hiện một loạt các cửa tiệm bánh mì thuộc hệ thống Ba Lẹ. Ngoài bánh mì, Ba Lẹ Hawaii còn mở rộng dịch vụ và cung cấp thực phẩm cho các khách sạn và hãng hàng không.
Tuy cửa hàng bánh mì trên đường King có nhiều khách hàng nhưng để đi vào giòng chính thu hút nhiều khách mới, Lee’s Sandwiches cần có bộ mặt mới, hiện đại hơn. Đó là ý kiến của một thành viên trẻ thuộc thế hệ thứ ba trong gia đình họ Lê.
“Cháu Minh muốn thí nghiệm ý định của mình tại ngay Bolsa, nơi đón nhận người Việt và du khách từ khắp nơi trên thế giới đến thăm Little Saigon,” ông Chiêu nhắc lại một kỷ niệm cũ đau lòng khi cửa hàng chưa khai trương thì người con trai trưởng qua đời trong một tai nạn lưu thông.
Thành công của tiệm Lee’s đầu tiên trên phố Bolsa, nơi có sức cạnh tranh của hàng chục tiệm bánh mì khác, đã làm người Việt hết sức ngạc nhiên. Lần đầu tiên người đi mua bánh mì phải thứ tự xếp hàng, đặt hàng lấy số trong lúc cả một hệ thống máy điện toán hiện đại được đưa vào sử dụng. Và cũng lần đầu tiên người ta thấy có tiệm bánh mì mở cửa 24/24 với tên gọi “Always Open.”

Tuy nhiên phương hướng phát triển mới, mở rộng ra khỏi phạm vi dòng họ không được tất cả các thành phần trong gia đình đồng ý.
“Bà già thì không bao giờ muốn mở thêm tiệm,” ông Chiêu giải thích.
Thật ra, theo lời ông Hướng, trong gia đình đang có hai khuynh hướng khác nhau: một là tiếp tục hoạt động như hiện nay và giới hạn trong phạm vi bà con họ hàng, và hai là mở rộng đón nhận đầu tư kể cả nhân lực từ bên ngoài.
Chuyên gia tham vấn trong lãnh vực kinh doanh gia đình Quentin Fleming ở Los Angeles nói về những khuynh hướng dị biệt trong vấn đề mở rộng cơ sở làm ăn.
“Khi tôi làm tham vấn cho các doanh nghiệp người di dân gốc Á, thì điều rất hay xảy ra là họ muốn dấu bớt và không nói hết về ngành nghề của mình. Nhưng tại Mỹ này, một khi đã phát triển lớn thì phải có sự tham gia của người và vốn từ bên ngoài.”
Con đường làm ăn quy mô này đã được hệ thống Phở Hòa đi trước từ năm 1983 và phát triển thành 91 cửa tiệm dưới dạng franchise tại Mỹ và nhiều nước trên thế giới.
Ông Nguyễn Bính, 48 tuổi một trong những người sáng lập hệ thống Phở Hòa có trụ sở chính tại Sacramento nói rằng người Việt có thói quen dấu nghề:
“Muốn bành trướng, gia tăng doanh thu thì phải mở rộng ra bên ngoài chứ không như suy nghĩ của phần đông người Việt là khi chia sẻ kinh nghiệm với người khác sẽ làm giảm giá trị ngành nghề của mình.”
Ông Bính nêu thí dụ về công thức nhồi bột lăn gà chiên của hệ thống KFC chẳng hạn vẫn là những điều được giữ kín.
“Làm franchise đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường và vốn lớn ban đầu cho nên đó cũng là điều gây trở ngại cho các doanh nghiệp nhỏ của người gốc Việt,” ông Bính nhận xét.

Lên phát biểu tại buổi lễ nhận giải thưởng của SBA hồi tháng Năm, bà Lê Quách Ngọc Yến cho hay công ty Lee’s Sandwiches đang có kế hoạch mở rộng cơ sở làm ăn sang các tiểu bang khác dưới hình thức cho thuê bảng hiệu - franchise.
“Chúng tôi đã nhận được hơn 200 đơn từ nhiều tiểu bang muốn hợp tác làm ăn,” ông Hướng nói với Việt Mercury.
Rõ ràng là bán bánh mì thịt có vẻ là nghề “ngon cơm.”
Trong cuộc phỏng vấn trước đây, ông Tô Văn Lai của trung tâm băng nhạc Thúy Nga Paris có đưa ý kiến về những nhiêu khê khi kinh doanh ngành văn hóa văn nghệ:
“Cứ bán bánh mì như Lee’s Sandwiches, vậy mà khỏe.”

Thursday, October 28, 2010

Buddha in the West: Dalai Lama as Super Star

Andrew Lam

Americans may still debate the merits of Islam and argue over the building of an Islamic Center near Ground Zero, but the other branch of spirituality, Buddhism, is apparently more than welcome.
For a few days last week the Dalai Lama, who by far is the most famous Buddhist monk in the world, is celebrated at Emory University. People paid to come hear him. According to Atlantic Month, “seated above a bank of chrysanthemums, the Dalai Lama seemed one part royalty, one part rock star.”
In the last half of the 20th Century, America cunningly exported itself overseas, marketing its images, ideologies, products and religions with ingenuity and zeal, but what it has not been able to fully assess or prepare for are the effects in reverse. For if Americanization is a large part of globalization, the Easternization of the West, too, is the other side of the phenomenon.
I take it as some cosmic law of exchange that if Disneyland pops up in Hong Kong and Tokyo, Buddhist temples can sprout up in Los Angeles, home of the magic kingdom. Indeed, it comes as no surprise to many Californians that scholars have agreed that the most complex Buddhist city in the world is nowhere in Asia but Los Angeles itself, where there are more than 300 Buddhist temples and centers, representing nearly all of Buddhist practices around the world.
Over the past 25 years, Buddhism has become the third most popular religion in America behind Christianity and Judaism, according to a 2008 report from the Pew Forum on Religion and Public Life. Evidence of Buddhism spreading deep roots in America is abundant.
A few months ago CNN reported that, “programs and workshops educating inmates about meditation and yoga are sprouting up across the country.” There are more than 75 organizations working with some 2,500 people, most of them prisoners, and they inspired a documentary called “The Dhamma Brothers.”
Last December, Thomas Dyer, a former Marine and one-time Southern Baptist pastor, will head to Afghanistan as the first Buddhist chaplain in the history of the U.S. Army.
Yet, despite Buddhism’s message of inner peace and compassion, it, in its own way, is a very radical spiritual practice for its refutation of the existence of a creator. In essence, the serious practitioner aims to extinguish the self by defeating his own ego and, thereby, seeing beyond the illusion spun by the ignorant mind.
The ultimate Buddhist experience entails neither god nor self, neither “out there” nor “in here,” for that membrane that separates the practitioner’s being and that of the world, upon awakening, has been lifted. All that remains is - ohm – absolute awe and bliss. Imagine, if you will, Moses not turning his face away from the burning bush that is god but approaching it then fully merging with that terrifying fire.
As ties deepened between the two continents, as immigration from Asia continues, and as the Dhamma [Buddha’s teachings] spreads beyond all borders, we are entering what many thinkers and philosophers call the second axial age, an age of pluralism where the various spiritual traditions co-exist.
In these global days, no single system can exist as a separate entity, nor can its borders remain impervious to change, all exist to a various degree of openness and exchange. And the old Silk Road along which so many religious ideas traveled has been replaced by a far more potent thoroughfare: unprecedented global migration, mass communications, and the information highway, which transcends geography.
I once kept on the wall in my study two very different pictures to remind me of the way East and West have changed. One is an issue from a Time magazine on Buddhism in America. In it, a group of American Buddhists sits serenely in lotus position on a wooden veranda in Malibu overlooking a calm Pacific Ocean. The other is of Vietnamese-American astronaut named Eugene Trinh’s space shuttle flight. The pictures tell me that East and West have not only met, but also commingled and fused. When a Vietnamese man who left his impoverished homeland can come very close to reaching the moon, while Americans are turning inward, trying to reach nirvana with each mindful breath, I think that East-West dialogue has come a long way.

Monday, October 25, 2010

Quỹ Tương Tế Việt Nam: 15 Năm Thành Lập


Kính thưa qúy vị đại diện các cơ quan, đoàn thể, hội đoàn
Kính thưa qúy cụ qúy ông bà và toàn thể qúy vị,

Thay mặt cho Hội đồng quản trị QTTVN, tôi xin chào mừng sự hiện diện của qúy vị. Đáp lời mời của chúng tôi, quý vị đã đến tham dự Đại hội mừng thập ngũ chu niên ngày thành lập Qũy Tương Tế Việt Nam (26-10-1995/24-10-2010).
Thời gian qua thật mau! Thấm thoắt, QTTVN đã tròn 15 tuổi.

Kính thưa qúy vị, cách đây hai  năm, trong kỳ đại hội lần thứ 13 được tổ chức vào ngày 26 tháng 10 năm 2008 cũng tại nơi này, chúng tôi đã hân hạnh báo cáo trước toàn thể đại hội với con số hội viên Qũy Tương Tế Việt Nam của chúng ta lúc bấy giờ vừa  đúng con số 2,595 người, và số tiền dự trữ phúng điếu lúc đó là $2,438,526.46 xu. Nhưng sau hai năm hoạt động số hội viên của chúng ta đã tăng thêm là 250 hội viên, nâng tổng số hội viên của chúng ta lên con số 2,845 người. Số tiền dự trữ cho qũy phúng điếu cũng đã tăng thêm được $732,164.71 xu, nâng tổng số tiền dự trữ phúng điếu của chúng ta hiện có trong tay ngày hôm nay là: $3,170,691.17 xu. Trong suốt 15 năm hoạt động, QTTVN đã có 314 hội viên qua đời tại Hoa Kỳ, tại Việt Nam và Ðài Loan. Qũy Tương Tế Việt Nam đã chi trả tiền phúng điếu cho thân nhân của 314 cố hội viên này với tổng số tiền là $3,258,000. Tiền chi trả lương nhân viên, thuê cơ sở, văn phòng phẩm, máy móc trang thiết bị cho văn phòng từ khi thành lập đến nay là $754,422.36. Như vậy sau 15 năm hoạt động số tiền mà QTTVN của chúng ta đã thủ đắc lên tới $7,183,113.53 xu. Qũy Tương Tế Việt Nam cũng đã mua 50 sinh phần tại Nghĩa Trang Oak Hill và đã nhượng lại cho các hội viên tất cả 50 sinh phần này với giá vốn và giúp cho hội viên được trả góp hàng tháng.

Chúng tôi đang phục vụ tích cực cho gần 3,000 hội viên, nhưng QTTVN cũng không quên các cố hội viên đã mãn phần. Chúng tôi đã thiết lập bàn thờ với linh vị gồm tên, tuổi, hình ảnh và ngày quá vãng của những cố hội viên này và đặt thường trực tại trụ sở  của QTTVN. Hôm nay, trong ngày Đại hội, bàn thờ linh vị ấy được an vị trên bục cao trong hội trường để tất cả qúy vị tham dự đại hội có dịp chiêm ngưỡng và tưởng niệm các hội viên đã khuất.

Các thành viên trong Hội đồng quản trị và Hội đồng Cố vấn vẫn thường xuyên tham dự những phiên họp thường lệ hay đặc biệt để nghe báo cáo về các hoạt động của QTTVN, đóng góp ý kiến, rút tỉa ưu khuyết điểm và cùng nhau tìm ra các phương huớng hoạt động tốt nhất cho việc phát triển. Trong năm 2008 chúng ta đã mất đi một vị cố vấn khả kính đó là LM Vũ Ngọc Đáng, đến năm 2009 chúng ta lại mất thêm một nhân viên Văn phòng điều hành là ông Nguyễn Tuấn Hiệp và thêm 3 vị cố vấn nữa cũng lần lượt ra đi là các ông Nguyễn Bá Cẩn, Bùi Đình Đạm và Bùi Huy Hải. Hiện nay QTTVN của chúng ta là một tổ chức tương trợ duy nhất hoạt động trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ nhằm phục vụ cho các đồng hương Việt Nam. Hội viên QTTVN hiện nay đã trải rộng trên 50 tiểu bang của Hoa Kỳ từ Bắc xuống Nam, từ Ðông sang Tây  đến tận các hải đảo xa xôi của tiểu bang Hawaii trong Thái Bình Dương hay miền cực Bắc Alaska.

Ngoại trừ ba nhân viên văn phòng làm việc bán thời gian. Hội đồng quản trị, hội đồng cố vấn và giám đốc điều hành đều phục vụ với tư cách thiện nguyện, không ai nhận thù lao, trợ cấp hay bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào cả. Việc chi, thu luôn luôn được công khai hoá, quang minh chính đại với sự kiểm soát của chuyên viên thuế vụ CPA, và Ủy viên Giám sát của Hội đồng quản trị. Phương châm làm việc của Hội đồng quản trị và Cố vấn là “Chí công vô tư”. Dù chỉ là một xu nhỏ cũng không hề bị thất thoát hay lạm dụng. Hiện nay với sự quản trị trong sáng sẵn có, và vì sự trường tồn của QTTVN, chúng tôi tha thiết kêu gọi toàn thể qúy hội viên hãy hỗ trợ về mặt tinh thần và khích lệ chúng tôi để chúng tôi làm tròn trách vụ mà qúy hội viên đã tín nhiệm trao phó cho chúng tôi. Chúng tôi cũng xin qúy hội viên tiếp tay đóng góp cho việc phát triển và củng cố QTTVN bằng cách giới thiệu rộng rãi và kêu gọi thân nhân, bằng hữu gia nhập QTTVN để QTTVN được truờng tồn mãi mãi cho các thế hệ con cháu chúng ta. Với uy tín hiện nay, chắc chắn con số hội viên cũng như tiền dự trữ phúng điếu của QTTVN chúng ta sẽ còn gia tăng nhiều hơn nữa. Chúng tôi ước mong rằng trong ngày Đại hội kỷ niệm 20 năm ngày thành lập vào tháng 10 năm 2015, chúng tôi sẽ được hân hạnh báo cáo trước toàn thể qúy vị hội viên những thành quả tốt đẹp hơn hôm nay rất nhiều. Xin ơn Trên phù hộ chúng ta. Xin cầu chúc qúy vị thật dồi dào sức khỏe và trường thọ để vui hưởng tuổi già bên cạnh con cái, cháu chắt và thân nhân bằng hữu.

Trân trọng kính chào qúy vị,

Nguyễn Trung Hòa
Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị

Thursday, October 14, 2010

Phụ Nữ & Đồng Hồ Sinh Học

Ngọc Thụy


Khi đạt đến tuổi 30, người phụ nữ hầu như không còn gì trong buồng trứng, trong khi lúc còn ở thời kỳ phôi thai, hai buồng trứng có khoảng sáu triệu bọc trứng non, đến khi ra đời còn lại một triệu và chỉ còn 40.000 lúc tới tuổi dậy thì. Kết quả nghiên cứu mới nhứt cho thấy phụ nữ triển hạn việc có con có thể sẽ gặp nhiều trở ngại từ lúc đậu thai đến khi sinh nở. Cuộc điều tra khoa học do đại học University of St. AndrewsEdinburgh University ở Scotland thực hiện đã phát hiện ra rằng khi đến độ tuổi 30, phụ nữ chỉ còn 10% số trứng trong người và đến tuổi 40 còn chừng 3%. Ở tuổi 50-51, buồng trứng coi như hết “hàng.”
Bản tin đăng trên trang nhà của hai đại học ở Scotland nói rằng đây là bằng chứng nữa về việc phụ nữ sinh ra đời với số lượng trứng nhất định, và lượng này giảm dần với tuổi đời càng cao. Dựa trên kết quả này, người ta có thể tiên đoán chính xác tuổi mãn kinh nơi người phụ nữ khỏe mạnh đồng thời cũng giúp duy trì khả năng sinh sản trong nhóm phụ nữ đang chữa trị bệnh ung thư.
Trước đây người ta vẫn hiểu rằng phụ nữ lớn tuổi gặp khó khăn trong khâu đậu thai, kể cả sinh con yếu ớt bệnh tật nếu có thai nhưng nghiên cứu này cho thấy rõ lượng trứng mất hay còn là bao nhiêu, và lượng trứng bị đào thải với tuổi có tốc độ nhanh hơn người ta vẫn lầm tưởng.

Các khoa học gia của hai trường đã dùng dữ liệu thu thập từ 325 phụ nữ ở nhiều độ tuổi khác nhau tại Anh quốc, Mỹ, và Châu Âu và khẳng định đồng hồ sinh học của phụ nữ chạy rất đúng giờ và không thể vặn lui được. Bởi vậy lời khuyên được đưa ra là nên có con càng sớm càng tốt - tốt nhất là cuối 30 đầu 40 tuổi. Ngay cả dùng phương pháp cấy thai nhân tạo (in vitro fertilization) cũng chỉ 10% phụ nữ 40 đạt thành công trong một lần cấy. Tuy nhiên tuổi thọ của buồng trứng có thể làm chậm lại phần nào nếu bỏ thuốc lá, giảm cân và tránh stress. Phụ nữ sanh con nhiều lần sẽ có khả năng duy trì tình trạng sinh sản lâu hơn.
Để kết luận Bác Sĩ Tom Kelsey thuộc trường St. Andrews muốn chuyển lời nhắn đến nhóm phụ nữ có ý định triển hạn việc mang bầu và sinh con rằng văn hóa có thay đổi thì ngược lại đồng hồ sinh học của con người không thay đổi với cùng tốc độ.
Trang web http://www.health.com trích nghiên cứu của khoa sản American Society for Reproductive Medicine, phụ nữ 30 tuổi đầy đủ sức khỏe chỉ có khoảng 20% khả năng thụ thai tự nhiên, đến 40 tỉ lệ giảm còn 5%. Gần như 1/3 phụ nữ từ 40 đến 44 không khả năng thụ thai, so với 22% khi ở tuổi 35 đến 39 và chỉ 9% ở tuổi 25-29.
Bản tin dẫn lời Bác Sĩ Richard Paulson, một khoa học gia hàng đầu về thai sản, nói rằng: “Khi đến tuổi 43 hay 44, phụ nữ chỉ có mỗi tháng 1% khả năng thụ thai tự nhiên, sau đó thì phải nhờ vào trứng của người cho.”
http://living.health.com/2009/05/18/fertility-success-rates-30s-and-40s/

Wednesday, October 6, 2010

The Education of a Vietnamese American Writer

Andrew Lam


One summer afternoon many years ago, I stole home and robbed my parents of their American Dream. I wasn’t going to be a doctor, after all. I was going to study creative writing. When they heard the new, it was as if all the air had been sucked out of the living room. Mother covered her mouth and cried; Father cursed in French. Older brother shook his head and left the room. I sat silent and defiant. I was only a small child when we fled Vietnam in 1975, but I remember how I trembled then as my small world collapsed around me. I trembled on this day, too, as I told my parents that I was following my passion.
At UC Berkeley, more than half of those in the Vietnamese Students Association, to which I belonged, majored in computer science and electrical engineering. These fields were highly competitive. A few told me they didn’t want to become engineers: some wanted to be artists, or architects, and had ample talent to do so, but their parents were against them. It was worse for those with family still living in impoverished Vietnam. One, in particular, was an “anchor kid” whose family sold everything to buy him perilous passage across the South China Sea on a boatful of refugees. He knew that others were literally dying for the opportunities he had before him, and failure was not an option. Many of my friends were driven; theirs was an iron will to achieve academic success. On the wall of the dorm room of a Vietnamese friend was his painting of a mandarin dressed in silk brocade and wearing a hat. Flanked by soldiers carrying banners, the young mandarin rides in an ornate carriage while peasants look on and cheer. It was a visual sutra to help him focus on his studies.

And I, with a degree in biochemistry and on a path to attend medical school to the delight of my parents, was, in their eyes, throwing it all away – for what? I had, in secret, applied to and been accepted into the graduate program in creative writing at San Francisco State University. “Andrew, you are not going to medical school,” said Helen, my first writing teacher after reading one of my short stories. My response was entirely lacking in eloquence. “But … but … my mom is going to kill me.” Filial piety was ingrained in me long before I stepped foot onto American shores. It is in essence the opposite of individualism. “Father’s benefaction is like Mount Everest, Mother’s love like the water from the purest source,” we sang in first grade. If American teenagers long to be free and to find themselves, Vietnamese are taught filial obligation, forever honoring and fulfilling a debt incurred in their name.
My mom didn’t kill me; she wept. It was my father who vented his fury. “I wanted to write, too, you know, when I was young. I studied French poetry and philosophy. But do you think I could feed our family on poems? Can you name one Vietnamese who’s making a living as an American writer? What makes you think you can do it?” This was the late ‘80s, and the vast majority in our community were first-generation refugees, many of them boat people who had subsisted for years in refugee camps in Southeast Asia.
“I can’t name one,’ I said. “There may not be anyone right now. So, I’ll be the first.”
Father looked at me and with that look I knew he was not expecting an answer; it was not how I talked in the family, which was to say respectfully and with vague compliance. Perhaps for the first time, he was assessing me anew.
I matched his gaze, which both thrilled and terrified me. And crossing that invisible line, failure was no longer an option. My friend with the painting of a mandarin became an optometrist and gave up art. I remember the first time he showed me the picture of the mandarin, saying “Do trang nguyen ve lang” – Vietnamese for, ‘Mandarin returns home after passing the imperial examination.” But the image needed no explanation, to me or any student from Confucian Asia, it embodied the dream of glorious academic achievement and with it influence and wealth for the entire family. Villages and towns pooled resources and sent their best and brightest to compete at the imperial court, hoping that one of their own would make it to the center of power. Mandarins were selected and ranked according to their performance in the rigorous examinations, which took place every four years.

Vietnam was for a long time a tributary of China and it was governed by mandarins, a meritocracy open to even the lowest peasant if he had the determination and ability to prevail. Of all the temples in Hanoi, the most beautiful is Van Mieu, the Temple of Literature, dedicated to all those laureates of Vietnam who became mandarins, their names etched on stone steles going back eight centuries.
It was Vietnam’s first university, the Imperial Academy. That it became a temple to the worship of education seems entirely appropriate.
Under French colonial rule, China’s imperial examinations were replaced by the baccalaureate. To have passed its requirements was something so rare that one’s name was forever connected to the title. My paternal grandmother’s closest friend was Ong Tu Tai Quoc – Mr. “Baccalaureate” Quoc.
My paternal grandfather’s baccalaureate took him to Bordeaux to study law and when he returned, he married the daughter of one of the wealthiest men in the Mekong Delta. And for Vietnamese in America, education is everything. So, for someone lucky enough to escape the horrors of post-war Vietnam and be handed through the hard work of his parents the opportunity to become a doctor, to say “no, thank you” was akin to Confucian sin. By refusing to fulfill my expected role within the family, I was being dishonorable. “Selfish,” more than a few relatives called me.
But part of America’s seduction is that it invites betrayal of the parochial. The old culture demands the child to obey and honor the wishes of his parents. America tells him to think for himself and look out for number one. America spurs rebellion of the individual against the communal: follow your dream. It also demands it: life, liberty and the pursuit of happiness.
Many children of Asian immigrants learn early to negotiate between the “I” and the “We,” between seemingly opposed ideas and flagrant contradictions, in order to appease and survive in both cultures.

In Vietnam, as a child during the war, I read French comic books and martial arts epics translated from Chinese into Vietnamese, even my mother’s indulgent romance novels. In America, I read American novels and spent my spare time in public libraries, devoting the summers to devouring book after book. When not studying, I was reading. If I was encouraged to mourn the loss of my homeland, I was also glad that I became an American because here, and perhaps nowhere else, as mythologist Joseph Campbell urges, I could follow my passion, my bliss.

Some years passed…
Eavesdropping from upstairs during a visit home, I heard my mother greeting friends and learned of a new addition to our family. “These are Andrew Lam’s awards,” she said, motioning to a bookshelf displaying my trophies, diplomas, and writing awards. “Andrew Lam” was stressed with a tone of importance. “My son, the Berkeley radical,” my father would say by way of talking about me to his friends. “Parents give birth to children,” adds my mother, “God gives birth to their personalities.”
Later that day, I went out to my parent’s backyard for a swim. It was in mid-September when kids were going back to school and leaves had started to turn colors. Though it was sunny out the water was very cold. I remember standing on tip-toe for a long time at the pool’s edge, fearing the inevitable plunge, yet longing for the seductive blue water. Then, I closed my eyes, took a breath, and leapt. It was cold. But as I adjusted to the temperature and swam, I couldn’t understand why I hesitated for so long.
Finding and following my passion and path in life is a bit like that. Scary. Delightful. A struggle — to be sure. But once I dove into the pool, I took to the water. And I kept on swimming.

NAM Senior Editor Andrew Lam is the author of “Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora” and “East Eats West: Writing in Two Hemispheres,” now available.

Thursday, September 30, 2010

Da Cam: Vết Thương Chưa Lành

Đức Hà

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt nay đã 35 năm hơn, và mối quan hệ giữa hai nước cựu thù ngày càng trở nên tốt đẹp tuy vậy một cuộc chiến khác, tàn khốc không kém, vẫn âm ỉ hủy hoại con người và có thể còn tiếp diễn sang nhiều thế hệ nữa. Vấn đề nghiêm trọng này đang được cả hai phía Mỹ - Việt rốt ráo tìm cách giải quyết hầu có thể khép lại trang sử đau buồn cuối cùng.
Trong chuyến công du Hà Nội hồi tháng Bảy, Ngoại Trưởng Hillary Clinton cam kết Hoa Kỳ sẽ tích cực hợp tác giải quyết hệ quả của cuộc chiến liên quan đến hóa chất diệt cỏ từng được quân đội Mỹ sử dụng tước đây. Trong cùng lúc tại Mỹ, Bộ Cựu Chiến Binh cũng nhìn nhận 14 loại bệnh để được hưởng các khoản bồi thường và dự kiến liệt kê thêm bệnh tim, ung thư máu và Parkinson’s.
Thành quả đạt được ngày hôm nay là nỗ lực đấu tranh lâu dài và kiên trì của nhiều cá nhân, nhiều tổ chức thiện nguyện và phi chánh phủ. Tham gia vào cuộc vận động này có một người Mỹ gốc Việt, Giáo Sư Tiến Sĩ Ngô Thanh Nhàn thuộc đại học New York University. Tình thương đồng loại và tình bạn đã đưa đẩy ông đến với các nạn nhân Mỹ và Việt:
“Tôi có nhiều bạn cựu chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam từ những năm 1968, và nhiều bạn cựu chiến binh Mỹ có mặt trong các cuộc chiến khác. Nhiều người chết vì Chất Da Cam, nhiều người sống trong bệnh tật. Nói chung họ nghèo. Vụ kiện của họ trong những năm 1980’s không thành công và vấn đề Da Cam bị quên lãng. Có người trước đây nhất định không khai bệnh nhưng nay tuổi già, bắt đầu phải khai báo trong lúc chính sách của Bộ Cựu Chiến Binh Mỹ cũng rộng rãi hơn.”

Và khi Việt Nam khởi kiện 37 công ty hoá chất tại tòa án Mỹ năm 2004, Hội Cựu chiến Binh Vì Hòa bình (Veterans For Peace) kêu gọi thành lập cuộc Vận Động Cứu Trợ và Trách Nhiệm đối với Nạn Nhân Chất Da Cam Việt Nam - Vietnam Agent Orange Relief & Responsibility Campaign, Giáo Sư Nhàn trở thành một trong những người chính tham gia cuộc vận động với trang nhà http://www.vn-agentorange.org là tiếng nói chính thức của cuộc vận động.
Ông cho biết dự án hoạt động ra đời ngày 27 tháng Giêng 2005 nhắm vào ba đối tượng nạn nhân là cựu chiến binh Mỹ và con cháu nhiễm bệnh, nạn nhân người Việt tại Mỹ cùng gia đình, và nạn nhân ở Việt Nam thuộc nhiều thế hệ.
Nhưng cho đến nay chỉ có cựu quân nhân Hoa Kỳ và nạn nhân ở Việt Nam đạt được nguyện vọng. Nạn nhân Da Cam trong cộng đồng Việt ở Mỹ không được nhắc tới.

Câu Chuyện Da Cam

Trong suốt 10 năm từ 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã rải 20 triệu gallons hóa chất diệt cỏ tại Nam Việt Nam, và vùng biên giới sát với Kampuchia và Lào. Ước lượng 10% diện tích của Miền Nam - từ vĩ tuyến 17 đến đồng bằng sông Cửu Long, bị rải thuốc chứa trong các thùng 55 gallons sơn vạch màu da cam với tỉ lệ gấp 13 lần nhiều hơn chỉ định. Phần lớn những sự tàn phá trên cây cỏ và rừng kéo dài cả chục năm mới có khả năng hồi phục, cho dù các thành phần hóa học của Chất Da Cam – không ảnh hưởng vào sức khỏe con người sẽ tan biến sau khi được phun ra. Nhưng có khoảng 2/3 lượng thuốc sử dụng bị nhiễm chất dioxin TCDD độc hại và đó mới là nguyên nhân chính yếu của nhiều dạng ung thư và hàng loạt các bệnh khác kể cả quái thai, sinh con khuyết tật. Có nơi tỉ lệ chất dioxin trong nước và đất gấp trăm lần mức chấp nhận được – phần lớn chung quanh các sân bay quân sự nơi tồn trữ kho hóa chất diệt cây cỏ. Tuy nhiên nếu tác hại của hóa chất khai quang trên môi trường có thể khắc phục được thì tác hại trên con người lại là một vấn đề nan giải vì có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Bộ Cựu Chiến Binh Mỹ thống kê 2.6 triệu quân nhân Mỹ bị phơi nhiễm tác nhân Da Cam. Phía Việt Nam cho hay 4.8 triệu dân Việt bị nhiễm hóa chất độc, làm 400,000 người chết hay tàn tật và nửa triệu trẻ sinh ra dị tật. Còn một thành phần nữa là người Việt đang sống tại Mỹ trong đó có cựu quân nhân và thường dân - không thể có khả năng miễn nhiễm khi tiếp xúc với hóa chất này thì chưa có con số nào được đưa ra. Trang web War Legacies – http://www.warlegacies.org viết rõ: “Hiện chưa có cuộc nghiên cứu nào về ảnh hưởng của Chất Da Cam/dioxin đối với sức khỏe của gần hai triệu người Mỹ gốc Việt.”
Sau khi xác định Chất Da Cam/dioxin có ảnh hưởng đến sức khỏe con người, Bộ Cựu Chiến Binh cho binh sĩ Mỹ tham chiến tại Việt Nam được hưởng nhiều quyền lợi kể cả chăm sóc sức khỏe và con cái nếu bị spina bifia (một dạng cong cột sống) hay dị tật dị dạng cũng được hưởng thêm các đặc lợi khác. Còn tại Việt Nam Hoa Kỳ tuy vẫn khẳng định không có chứng minh khoa học chính xác cho thấy có mối liên hệ trực tiếp giữa tác nhân Da Cam và sức khỏe con người, nhưng trong những năm gần đây đã có các cuộc thảo luận tích cực giữa hai phía nhằm khai thông vấn đề này.

Tháng Sáu vừa qua Nhóm Đối Thoại Việt – Mỹ cho phổ biến kế hoạch hành động kêu gọi chính phủ Mỹ và các nhà hảo tâm đóng góp một ngân khoản ước lượng 300 triệu đô-la trong vòng 10 năm tới để làm sạch môi trường và chữa trị cùng giúp đỡ những nạn nhân bị nghi ngờ có liên hệ đến hóa chất Da Cam/dioxin.
Về thành phần người Mỹ gốc Việt, Tiến Sĩ Nhàn giải thích:
“Khởi đầu, người Mỹ nghĩ chỉ có cựu chiến binh Mỹ bị nhiễm độc, cộng đồng người Việt im lặng, nên chúng tôi mời nạn nhân tại Việt Nam sang Mỹ và nói chuyện tại nhiều thành phố, đến tháng Bẩy vừa qua đoàn Việt Nam, gồm bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng và nạn nhân Trần Thị Hoan – sinh ra không có chân và thiếu một cánh tay, được mời điều trần tại Quốc Hội Mỹ.”
Ông Nhàn cho hay tất cả các nước khác có tham chiến tại Việt Nam như Nam Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Canađa, và cả Anh đều được sự giúp đỡ ở nước họ. 

Nếu nhóm biệt kích của Nam Việt Nam khi định cư tại Mỹ sau cùng đều được bồi thường thì chuyện giúp đỡ các cựu quân nhân gốc Việt bị nhiễm Chất Da Cam/dioxin mới chỉ ở bước đầu: vận động.
Năm 2001, người ta thấy một bài viết trên báo Văn Nghệ Tiền Phong trong đó tác giả Đào Thạch Bích nêu câu hỏi về việc “… có nên tiếp tay vận động xin cho cựu chiến binh VNCH cũng được hưởng tiền bồi hoàn thiệt hại hay không.” Nhưng rồi dự án ngưng ở đó và rơi vào quên lãng - một phần cũng vì sự nhậy cảm gây nhiều tranh cãi của chuyện Da Cam. Ngay cả khi đoàn Việt Nam sang dự phiên tòa ở New York cũng bị đồng hương gốc Việt biểu tình chống đối. Những bài báo chỉ trích nhà nước Hà Nội lợi dụng chiến dịch Da Cam để mưu cầu tiền bạc, đánh lừa dư luận cũng như vu khống, mỵ dân tràn đầy trên mạng Internet.
Theo Giáo Sư Nhàn có thể nạn nhân Mỹ gốc Việt cũng không biết mình đang bị nhiễm chất dioxin: Ông giải thích:
“Theo tôi, các cuộc vận động về hậu quả của Chất Da Cam phải làm rõ và giúp nạn nhân thấu hiểu là họ bị nhiễm chất độc hại. Thông thường, nạn nhân của các độc tố ít khi biết mình nhiễm độc trừ phi có bác sĩ chuyên môn cho biết. Trước hết người Mỹ gốc Việt, nếu có thân nhân ở Việt Nam bị nhiễm, hay đã ở trong những vùng bị rải từ 1961-1971, nên đi khám bệnh và xem mình có bị một trong số 14 bệnh không.”
Ông Nhàn nhắc lại vào năm 2002 trước khi Tổng Thống Bill Clinton công du Việt Nam, một số người Việt đã thảo thư đề nghị ông không quên người Mỹ gốc Việt bị nhiễm Chất Da Cam, và đề nghị kiểm bệnh cho toàn thể cộng đồng người Việt tại Mỹ. Tuy nhiên, thư này không được toàn thể nhất trí, có người cho rằng thư này có lợi cho cộng sản, và vấn đề này đã bị xếp lại.

Khi hỏi vị giáo sư của đại học New York University rằng tại Mỹ có nạn nhân gốc Việt thực sự bị phơi nhiễm Da Cam/dioxin không, ông khẳng định là có:
“Trong những chuyến đi nhiều thành phố tại Mỹ với nạn nhân Da Cam Việt Nam, chúng tôi đã gặp nạn nhân người Mỹ gốc Việt và cả con cháu.  Phim “Agent Orange: 30 Years Later” của John Trịnh có phỏng vấn nạn nhân người Mỹ gốc Việt, là cựu chiến binh VNCH. Trong một nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng người Việt tại Quận Bronx, do bệnh viện Đại Học New York tổ chức, chuyên viên thống kê phát hiện ba dạng bệnh có nhiều nhất trong cộng đồng, ba bệnh ấy nằm trong 14 bệnh được Bộ Cựu Chiến Binh Mỹ công nhận có gốc từ Chất Da Cam.”
Cũng vậy khi ra điều tại Quốc Hội Mỹ hồi mới đây, Bác Sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, thành viên của Nhóm Đối Thoại và cũng là đại diện cho Hội Nạn Nhân Chất Độc Da Cam/Dioxin Việt Nam kêu gọi đừng bỏ quên những công dân Mỹ gốc Việt. Bà nói rằng một số trong hơn một triệu người trong cộng đồng Việt tại Mỹ đang đau khổ vì ảnh hưởng của Chất Da Cam và rất cần sự chăm sóc y tế.

Sau cùng để mọi người ý thức hơn nữa tầm nghiêm trọng của vấn đề này, Tiến Sĩ Ngô Thanh Nhàn kêu gọi mọi người hãy cùng nhau lên tiếng:
“Chúng tôi đang kêu gọi ký tên vào thư gửi Quốc Hội Mỹ, ủng hộ việc thông qua dự luật tổng thể chữa trị cho mọi nạn nhân Da Cam. Xin mời tham gia ký tên tại địa chỉ http://www.vn-agentorange.org/postcard_sign.php.”

Wednesday, September 22, 2010

Ăn Mặn – Khát Nước

Ngọc Thụy





Biết rằng ăn mặn sẽ khát nhưng vì thói quen, vì sở thích người ta vẫn tiếp tục ăn mặn và không phải cha ăn mạn con mới khát như thường nói mà ngay chính bản thân bị khát do … các biến chứng của tim. Nghiên cứu y học mới nhất của đại học University of California ở San Francisco nói rằng chỉ cần hàng ngày giảm mức tiêu thụ muối – khoảng hơn muỗng cà-phê, sẽ ngăn được 66,000 ca đột quỵ (stroke), 99,000 ca nhồi máu cơ tim (heart attack) và 92,000 ca tử vong trong một năm tại Hoa Kỳ. Đồng thời cũng tiết kiệm được 24 tỉ đô-la chi phí chữa trị.
Theo tác giả cuộc điều tra, người tiêu thụ có mối quan tâm đến thực phẩm và dinh dưỡng thường để ý xem nhãn hiệu trên bao bì và cân nhắc về lượng calorie hay mỡ trans fat (không bão hòa) trong món ăn mà không để ý đến lượng muối hay đường. Bằng sơ đồ thực hiện trên máy vi tính, các khoa học gia có thể ước tính hệ quả của bệnh tim mạch tác hại trên người tuổi từ 35 đến 84 và gợi ý rằng chỉ cần giảm ăn 1 gram muối mỗi ngày trong 10 năm sắp tới sẽ hiệu quả và rẻ hơn trị bệnh cao huyết áp bằng loại thuốc rẻ tiền nhất.
Nhằm tránh tình trạng béo phì ngày một gia tăng và giảm bớt các bệnh về tim mạch có nguồn gốc từ muối, tổ chức Y Tế Quốc Tế WHO, cơ quan USDA Mỹ đều khuyến cáo người dân bớt ăn đường và muối. Về lượng đường, tiêu chuẩn lý tưởng là không quá 40 gram/ngày – đây là lượng đường ăn thêm (có trong nuớc ngọt, bánh, kẹo) khác với đường có sẵn trong gạo, trái cây… Về muối có trọng lượng chuẩn là 5 grams/ngày (WHO), 5.8 grams/ngày (USDA).


Thật ra muối không chỉ tác hại đến tim mạch mà còn ảnh hưởng đến nhiều bộ phận khác trong cơ thể. Giáo Sư Franz Messerli, giám đốc chương trình nghiên cứu bệnh huyết áp cao tại bệnh viện St. Luke’s Roosevelt Hospital nhấn mạnh rằng giảm ăn mặn mang lại nhiều lợi ích. Ông nói: “Vì giảm lượng muối tiêu thụ có tác động trực tiếp đến tim, não bộ, thận và cũng giảm khả năng bị ung thư bao tử và loãng xương.”
Với người Mỹ trung bình, vấn đề giảm bớt muối là điều khó thực hiện khi các loại thực phẩm biến chế từ nhà máy hay thực phẩm bán tại nhà hàng ăn đều được nêm nếm hơi quá … mặn mà. Tài liệu cho thấy từ 75 đến 80% muối đều từ thực phẩm chế biến mà ra và lượng muối tiêu thụ hàng ngày từ 10.4 gram/ngày (nam) đến 7.3 gram/ngay (nữ) và ngày càng tăng nhiều hơn. Vì vậy nhiều công ty thực phẩm đã bắt đầu kế hoạch giảm bớt muối và đường trong sản phẩm đưa ra thị trường.
Công ty PepsiCo. Inc. dự kiến thương vụ các loại thực phẩm lành sẽ tăng gấp ba trong thời gian sắp tới, đồng thời cũng bắt đầu điều chỉnh nguyên liệu trong thực phẩm chế biến như:
Đến năm 2015, giảm bớt 25% muối/phần ăn trong các mặt hàng chủ lực; đến 2020 giảm 25% đường trong nước giải khát; giảm trung bình 15% chất béo saturated trong thực phẩm; và tăng các mặt hàng làm bằng hạt whole grain, rau quả, trái cây, các loại hạt. Pespsi dự kiến mở rộng khâu sản xuất các thương hiệu lành như Quaker, nước uống Naked juice, Tropicana, trà Tazo … và nghiên cứu các loại đường có tỉ lệ calorie thấp hoặc không tạo ra calorie, cũng như các loại muối không hại. Pepsi sẽ ngưng bán nước giải khát có đường full-sugar tại các trường học toàn thế giới kể từ 2012. Công ty thực phẩm chế biến khổng lồ Kraft cho biết cũng sẽ giảm 10% muối trong các mặt hàng bán tại Bắc Mỹ trong vòng hai năm tới. Còn tại căn cứ tiền tuyến của quân đội Mỹ ở Kandahar, Afghanistan, lệnh mới ban hành buộc các tiệm bán thức ăn nhanh như Burger King, Pizza Hut, Dairy Queen và T.G.I.F. trong khu dân sinh Boardwalk phải đóng cửa, nêu lý do việc chuyển vận thực phẩm cho hệ thống quán ăn này gây trở ngại không ít cho việc không vận quân khí cụ ra chiến trường.

Monday, September 20, 2010

35 Years After War's End, Vietnamese Diaspora Finds Its Way Home

Andrew Lam

Nguyen Qui Duc, a Vietnamese refugee who became an American radio host and the author of the memoir Where the Ashes Are, has found yet another incarnation in his mid-50s: Bar owner and art curator in Hanoi, Vietnam. Why would he come back to the country from which he once fled? “Home is where there’s a sense of connection, of family, of community,” he said after struggling to find a single answer. “And I found it here.”
But Duc is not alone. Every year, nearly 500,000 Viet Kieu—Vietnamese living overseas—return to Vietnam, many only to visit relatives, but others increasingly to work, invest and retire. The majority of them are from the United States, where the largest Vietnamese immigrant population resides. Indeed, 35 years after the Vietnam War ended, the Vietnamese Diaspora is now falling slowly, but surely, back into Vietnam’s orbit.

Not long ago, a Vietnamese living abroad had little more than nostalgic memories to keep cultural ties alive. During the Cold War, letters from the United States could take half a year to reach Vietnam. But 15 years after the United States normalized diplomatic ties with Vietnam, and three years after Vietnam joined the World Trade Organization, Hanoi is but an 18-hour flight from Los Angeles, and Vietnamese thousands of miles apart chat online, talk on Skype, and text or call each other on the cell phone. Tourism from Vietnam to the United States is increasingly common. Hanoi is even considering granting dual citizenship to the Viet Kieu to encourage further repatriation.
Duc, like many Vietnamese overseas, is playing an important role in Vietnam’s economic and cultural life. In 2008, despite the global economic slowdown, Vietnam received more than $7 billion in remittances from immigrants living abroad, according to news reports.
That same year, the country’s Chamber of Commerce reported some $5 billion in pledges by international donors for official development assistance.

The Vietnamese government has credited the Diaspora with reducing poverty and spurring economic development. “But the overseas influence on Vietnam is for more than just remittances,” said Duy Tran, a Viet Kieu businessman visiting from Los Angeles.
Tran said he fled as a boat person in the late 70s because his cousin sent home photos of her new life in America showing sports cars and high-rise buildings and wealthy Vietnamese Americans. “I followed her footsteps. I knew if she could become successful, so could I.”
Vuot bien, the Vietnamese phrase meaning to escape or to cross the border, became a household word in the 1980s, Tran said. “Everyone wanted to vuot bien and come to America.” Now? “Now,” he said, laughing, “I’m back to invest in real estate.”
The irony is that in the 21st century, many are looking at Vietnam as the next big investment opportunity. Vietnam has the second-fastest-growing economy in Asia, after China. It ranks 20th in thew world in terns of Internet access.

Victor Luu, who fled Vietnam a day before Saigon (now Ho Chi Minh City) fell to communist tanks on April 30, 1975, has become a successful software engineer who participated in several start-ups in California’s Silicon Valley. In 2006, he returned to his hometown and founded Siglaz, a software company with more than 50 employees. In his new office in a tall building in an area near the airport called E-Town, Luu could see the runway from which his plane full of panicked refugees took off 35 years ago. Of his workers, he said, “They are very quick learners, and they have a lot of Ph.Ds. [Many] went to Russia to study, and came back with very high degrees in math [and] artificial intelligence. These are the people [who] end up in our company.”
“I fully believe in Vietnam,” he added. “The future is here. And I want to help it happen.”

Diep Vuong, a cum laude graduate of Harvard University with a degree in economics, left Vietnam as a boat person in 1979, but came back five years ago to help fight human trafficking in her home province, An Giang in the Mekong Delta. “I always remember my mother saying to us that we were born Vietnamese for a reason, and it is up to us to figure out what that reason is,” she said.
As the rich-poor gap in Vietnam has widened with the growth of the economy, human trafficking has become a scourge. Vuong’s programs are part of the Pacific Links Foundation’s effort to empower young women, providing education, skills training, scholarships and shelter to those at risk. “Increasingly, Vietnamese Americans are playing central roles in the philanthropy sector,” she said. “As for me, I can’t just sit and do nothing. Any of those girls being sold to Cambodia or China could be a cousin or a child of an old friend.”

There’s another form of Viet Kieu contribution that is not so tangible, but arguably just as important. Nguyen Qui Duc’s bar, Tadioto, a narrow, three-story “tube” house on Trieu Viet Vuong Street in Hanoi, has become a gathering place for artists, writers and intellectuals—expatriates and locals alike. Avant garde pieces hang on walls or stand in the middle of rooms, including a green mannequin lying in an open glass coffin reminiscent of Ho Chi Minh’s mausoleum. “I think I am pushing some envelopes. I am talking about issues that are generally not talked about.”
Visitors to Tadioto include ambassadors, human rights workers, and other members of the diplomatic communities. “Public space is not yet what it should be in Vietnam,” Duc added. “I’m aiming to change that—to bring real dialogue between different people.”


Andrew Lam is editor of New America Media and author of "East Eats West: Writing in Two Hemispheres."  Check here for his speaking events in the west coast.

Friday, September 17, 2010

Renaissance Journalism Center’s LearningLAB


You are invited to participate in the LearningLAB, the Renaissance Journalism Center’s multimedia training conference for the community and ethnic media and nonprofit organizations.  it will be held Friday and Saturday, October 1-2, from 9am-4pm at San Francisco State University’s College of Extended Learning, 835 Market Street, San Francisco.  Please check out the conference website for details: http://rjclearninglab.com/.

On Friday, participants choose from a wide selection of in-depth workshops on new media skills and social networking strategies, taught by leading trainers in multimedia and social media.

Workshop topics include: Video storytelling on the Web; Audio on the Web: learn to use digital recorders and editing software, and how to publish online using free tools; WordPress websites and blogs on a shoestring budget; Social Media—two offerings, one for beginners and one for those with more advanced skills; Introduction to micro-volunteering and crowd-sourcing for community journalism projects; Get the most out of your Web searches using free Google products; and much, much more!

On Saturday, we are offering  two intensive all-day boot camps—one in English and one in Spanish—facilitated by Oakland Local and Nuestra Voz, respectively. In each boot camp, you get the opportunity to try your hand at producing a multimedia story from start to finish, even uploading your finished story to the Web.

The regular registration fee is $30 for the Friday workshops and $30 for each bootcamp.

Wednesday, September 8, 2010

Could Viet Nam be America’s New Counterweight to China?

Lam Quang Thi

When Hillary Clinton told the ASEAN regional forum in Hanoi last July that it was in the United States’ interest that sovereignty issues in the Eastern Sea be settled by negotiations, not force, it sent a shockwave through the region. Unlike her husband’s conciliatory stance vis-à-vis an expanding China, the Secretary of State seemed ready to challenge China’s dominance in the Eastern Sea when she declared, “We oppose the use or threat of force by any claimant.” Now the United States is making good on its promise by engaging in joint military exercises with China’s neighbor, Viet Nam.

Her declaration struck a special chord in Viet Nam, the country most affected by China’s aggressiveness. Viet Nam’s skirmish with China resulted in the near depletion of Viet Nam’s navy in 1988.

The Chinese navy, in fact, frequently killed or harassed Vietnamese fishermen operating within Viet Nam’s territorial waters. These incidents added to a consistent pattern of Chinese expansionism: conquest of the Paracel Islands in 1974; occupation of the Spratly archipelago in 1979; and annexation of the 12,000 square meters of territorial waters in the Vinh Bac Bo (Gulf of Tonkin) conceded by Hanoi, under the 2000 Vinh Bac Bo Pact.

Young Vietnamese flocked to Internet chat rooms to hail the new U.S. assertiveness as a necessary counter-weight approach to Chinese expansionism. One reporter wrote that Hillary Clinton’s statement “lit up the faces of people deadlocked and saddened by the risk of losing the country entirely.” One Vietnamese journalist reported that he would write a letter to President Obama to commend him for his firmness in dealing with the new Chinese threat in South-East Asia.

To add teeth to Clinton’s statement, the heavily armed super aircraft carrier, George Washington, made its way through the Eastern Sea along Viet Nam’s coast in August -- after a high profile exercise with the South Korean navy following the sinking of a South Korean warship allegedly by a North Korean torpedo. A group of high-ranking Vietnamese military and civilian officials was flown onto the aircraft carrier cruising 200 miles off the port of Danang, the site of the landing of the first contingent of American marines in March 1965. Two days after the George Washington stop, on August 10, the USS John McCain destroyer paid a port call to Danang to participate in training exercises with the Vietnamese navy.

However, what angered China most was not the U.S. navy port calls to Viet Nam but reports of a controversial U.S.-Viet Nam nuclear fuel and technology deal that could allow Viet Nam to enrich uranium on its soil. A nuclear-armed Viet Nam, in the long run, would constitute a far more formidable deterrent to China’s territorial ambitions than it is now.

Lost amid the new geopolitical realignment and rising US-Sino tensions in South-East Asia, however, is the fact that Viet Nam is itself caught in an insoluble political dilemma. There is a saying in political circles in Viet Nam that if you appease China you lose the country, but if you follow the United States you lose the Communist Party because the influx of new ideas, technology and money would accelerate a democratization that could ultimately bring down the corrupt and unpopular regime.

For Viet Nam communist leaders, it is a lose-lose situation because the continuous erosion of the nation’s territorial integrity could trigger a popular uprising and even a revolt within the army that had fought a bloody border war against China in 1979 and has grown increasingly frustrated with the party leadership’s subservience to Viet Nam’s historic enemy to the north.

As for the United States, it is once again in a position to exert its leverage in this strategic area of the world. By conditioning the granting of military support on the improvement of Hanoi’s human rights record, the United States could help ensure a free and democratic Viet Nam that would be better able to stand up to Chinese expansionism.

Ironically, 35 years after its humiliating defeat, the United States – without firing a shot -- is closer than ever to realizing its original goal of an independent and non-Communist Viet Nam for which 58,000 Americans and hundreds of thousands South Vietnamese have given their lives.

Thi Lam, a former general in the South Vietnamese army, is the author of "The Twenty-five Year Century: A South Vietnamese General Remembers the Indochina War to the Fall of Saigon" and most recently, "Hell in An Loc: The 1972 Easter Invasion and the Battle That Saved South Viet Nam."

Thursday, September 2, 2010

Trần Thị Hoan: Người Nhiều May Mắn

Đức Hà

LÀNG HÒA BÌNH II, Vietnam – Khi Trần Thị Hoan thức giấc vào mỗi buổi sáng để bắt đầu một ngày mới đầy sức sống thì Hoan là một cô gái hạnh phúc và may mắn hơn rất nhiều người cùng hoàn cảnh nhưng lại không có cơ hội sống đến ngày mai. Thật vậy, ngoài việc được đi đây đó – kể cả đi Mỹ, Hoan sẽ tốt nghiệp ngành công nghệ tin học trong tháng này, và nếu không có gì thay đổi cô sẽ cộng tác với công ty Nokia Việt Nam. Rõ ràng Hoan có một cuộc sống. Ít ra thì Hoan cũng “tạm” gọi là một con người, biết nói, biết tư duy, biết giận, buồn, vui … cho dù Hoan được xem là một nạn nhân Da Cam, một hóa chất khai quang độc hại sử dụng trong chiến tranh.
“So với các em ở tại Làng Hòa Bình, cũng như ở các nơi khác thì Hoan là người may mắn nhứt, có bạn bè để chia xẻ niềm vui và được học hành đầy đủ,” cô gái 23 tuổi giải bày từ Làng Hòa Bình bên trong Bệnh Viện Từ Dũ, nơi cô về sống từ 16 năm nay. Làng Hòa Bình được thiết lập nhiều nơi ở Việt Nam, là một hệ thống cơ sở chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ khuyết tật – đa phần được cho là bị phơi nhiễm Chất Da Cam/dioxin.

Chân Dung

Trần Thị Hoan ra đời tại Đức Linh, thuộc tỉnh Bình Thuận. Cô giải thích:
“Mẹ sinh hai chị gái và một anh trai, tất cả đều giống như mọi nguời, đầy đủ chân tay. Thế rồi một hôm khi làm rẫy, mẹ cuốc nhằm một thùng sắt xì ra mùi khó chịu và ngã bệnh. Sau đó mẹ được đưa đến trạm xá khám thì biết đang mang thai.”
Thai nhi đó sau này mang tên Trần Thị Hoan.

Tất cả các bộ phận cơ thể, cho đến nay đều bình thuờng ngoại trừ Hoan không có hai chân và thiếu hẳn một phần cánh tay trái. Không rõ vì hít nhằm hơi độc nên sau đó người mẹ sanh con dị tật hay có thể bị nhiễm độc ở một nơi khác nhưng Hoan ra đời như vậy, và vào thời điểm đó chẳng ai biết Da Cam là gì và Hoan không phải là một trường hợp cá biệt. Phải nhiều năm sau, Bác Sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, một thành viên của Hội Nạn Nhân Chất Độc Da Cam mới xác định là Hoan bị ảnh hưởng của hóa chất khai quang. Không rõ có bằng chứng khoa học nào kết nối hơi (độc) từ thùng sắt và việc sanh con dị tật của bà Bùi Thị Nguyên, mẹ của Hoan nhưng hai lần Hoan được cử đi Mỹ với tư cách là nạn nhân Da Cam.

Cho đến năm tám tuổi khi về sống trong Làng Hòa Bình ở Sài Gòn thì lúc đó Hoan mới có dịp tiếp cận với 60 em cùng hoàn cảnh với đủ các thứ bệnh và dị dạng như đầu phồng to, trán rộng quá khổ, không mắt, tay chân co quắp, không biết nói, chỉ nằm, không ngồi, không đứng, hư cột sống, không hậu môn … Những em này sống như vậy cho đến ngày chết hoặc chết bất cứ lúc nào vì một căn bệnh ung thư nào đó.
Việt Nam ước tính hiện có khoảng ba triệu người trong đó có 150,000 trẻ em bị ảnh hưởng Da Cam. Họ là con của binh sĩ miền Nam trước đây, của dân thường và dĩ nhiên cả con em của bộ đội từng tham gia đội quân giải phóng miền Nam. Con số 150,000 có thể chưa hoàn toàn chính xác – vì nhiều trẻ đã chết hoặc sinh sản thêm, nhưng nói rằng tất cả là nạn nhân Chất Da Cam thì cũng không có chứng minh khoa học chính xác.

Vì muốn có thêm một con trai nữa để đỡ đần khi về già, hai năm sau mẹ Hoan sanh một em trai. Bé này bị hội chứng thoát vị thành bụng (không có thành bụng) và tử vong ngay sau khi sanh. Đến năm 1990 mẹ Hoan sanh thêm một trai hoàn toàn bình thường. Khi gia đình Hoan không làm rẫy trên vùng đất đó nữa và một gia đình khác lại đến làm rẫy ngay tại đó thì không lâu sau người mẹ sinh hai con đều không phát triển chiều cao (khoảng 1,2 mét) nằm liệt giường, không nói được và thường xuyên bị nhức đầu, nhứt là khi thời tiết thay đổi; đứa kia ngủ suốt và bị suy dinh dưỡng. Hoan kể lại.
Cho đến bây giờ liệu vùng đất đó có bị cấm trồng trọt chưa là câu hỏi không có trả lời. Việt Nam không biết nơi nào bị rải thuốc, nơi nào từng là nơi tồn trữ thuốc khai quang cho đến khi nhận được các tài liệu của Bộ Quốc Phòng Mỹ. Chỉ vào lúc đó người dân định cư, sinh hoạt, ăn và uống hàng chục năm ngay trên vùng độc hại gần hay ngay trên các “điểm nóng” như sân bay Biên Hòa, Đà Nẵng, Phù Cát và nhiều nơi khác mới bị giải tỏa và di dời đi nơi khác.

Điều Trần

Trần Thị Hoan đi Mỹ lần đầu năm 2008 trong chuyến đi đòi hỏi công lý và tham gia các buổi tọa đàm tại 10 thành phố Mỹ. Lần hai vào tháng Bẩy vừa qua, cô được mời với tư cách là đại diện cho nạn nhân Da Cam Việt Nam. Tại Hạ Viện Mỹ, Hoan nói:
“Khi còn bé, tôi gặp nhiều khó khăn khi chơi đùa với bạn cùng lứa hay đi học. Vào lúc đó, không ai hiểu về Chất Da Cam. Người ta nghĩ rằng tình trạng của tôi là do nghiệp chướng của gia đình. Tuy nhiên khi về Sài Gòn sống chung với nhiều trẻ em khác tôi nhận thấy nhiều bạn đã qua đời chỉ vài năm sau khi sanh hoặc sống tật nguyền ít lâu rồi cũng chết.” Cô cho biết tiếp:
“Nạn nhân Chất Da Cam chết mỗi ngày và rất cần sự chăm sóc cùng giúp đỡ tức thì và Làng Hòa Bình nơi đã giúp các nạn nhân rất nhiều về vật chất và tinh thần không thể nào có khả năng chăm sóc nhiều trẻ hơn nữa và hàng trăm ngàn con người như vậy không được chăm sóc y khoa hầu như chỉ chờ ngày chết.”
Sau cùng thay mặt các nạn nhân Da Cam/dioxin, cô đặt vấn đề:
“Chúng tôi muốn rằng những người chịu trách nhiệm gây ra hậu quả kinh hoàng từ Chất Da Cam hãy lắng nghe những đớn đau khốn khổ của chúng tôi và có hành động đáp ứng. Các hãng sản xuất hóa chất và chính phủ Mỹ từng cho rải chất này phải có hành động đúng đắn. Đây là một vấn đề công lý và nhân đạo…”

Không chỉ điều trần trước Hạ Viện Mỹ, năm 2009 Trần Thị Hoan còn viết cả thư ngỏ gởi Tổng Thống Hoa Kỳ. Thư có đoạn:
“Xin nói riêng về bản thân tôi: thời đi học phổ thông, tôi từng mơ ước sẽ trở thành bác sĩ để về giúp bà con quê tôi vì quê tôi còn nghèo, nhưng tôi đã không thể thực hiện ước mơ ấy vì chất độc Da Cam đã cướp đi đôi chân và bàn tay trái của tôi, khiến cha mẹ tôi phải rơi bao giọt nước mắt vì xót xa trước hình hài của tôi; và ông nghĩ như thế nào nếu đến thế hệ con của tôi cũng bị như tôi, cũng bị cái thứ chất độc chết người ấy cướp đi hình hài nguyên vẹn, và biết đâu sẽ cướp luôn cả tính mạng của nó (nếu tôi lập gia đình)? Điều này tôi chỉ nói riêng về tôi, nhưng chắc cũng đủ để ông hình dung ra được những nỗi đau của bao bậc cha mẹ khác. Ông đã là cha của hai cô con gái xinh đẹp, hẳn ông rất hiểu tình yêu thương của các bậc cha mẹ dành cho con mình…”

Để giải quyết bóng ma chiến tranh còn sót lại giữa hai nước Việt – Mỹ, Nhóm Đối Thoại Việt Nam - Hoa Kỳ gồm các khoa học gia, người dân thường cùng với các nhà hoạch định chính sách vừa phổ biến một kế hoạch hành động kêu gọi chính phủ Mỹ và các nhà hảo tâm đóng góp một ngân khoản ước lượng 30 triệu đô-la mỗi năm trong vòng 10 năm tới để làm sạch môi trường bị nhiễm chất khai quang. Ngân khoản cũng được dùng để chữa trị và trợ giúp những nạn nhân bị nghi ngờ có liên hệ đến phát minh được báo Time liệt kê trong 50 phát minh tồi tệ nhất sau thuốc diệt sâu DDT.

Sunday, August 29, 2010

Về Lại Bển



Đức Hà

NỘI BÀI, Hà Nội - Không hiểu vì lý do gì, mỗi lần gặp một bạn cũ tại Sài Gòn thì trăm lần như một, chỉ nghe hai câu hỏi: “Yìa hồi nào? Chừng nào yìa bển?” Chớ có ai hỏi về làm gì, ở bao lâu, hay rủ rê vui chơi ăn nhậu. Trong khi tôi chỉ muốn người ta hỏi thời tiết có nóng quá không, ngủ được không … đại loại như vậy để tôi thở than cho bõ. Nóng thấy ông bà tổ, nóng gì mà nóng khủng, nóng điên cuồng, nóng vượt chỉ tiêu. Không tin hãy cứ thử ngồi xe ôm kẹp giữa rừng rừng xe gắn máy – từ xe có số đến xe tay ga từ 110 đến 150 cc, phun hơi nóng như thiêu như đốt thì nhiệt độ 32 độ C ngoài trời của Sài Gòn đã trở thành phòng xông hơi … không có mùi lá bạc hà. Thế là chỉ ba ngày sau khi xông đất Sài thành, cổ bắt đầu đau rát, người lừ đừ muốn sốt, đầu nhức như búa bổ, nước mủi chảy không ngớt. Cảm nắng. Thế là bèn đi giác hơi.

Ở đâu, cái gì không biết thì hỏi Gu-Gồ, ở Sài Gòn cái gì không biết cứ hỏi … xe ôm. Tôi được đưa đến một căn nhà nhỏ, thật nhỏ, chật thật chật bên trong con hẻm cạnh một ngôi chùa. Trên cái diện tích sàn nhà bé tí ti có bà cụ đang ngủ vùi, cạnh đó cậu con trai xem phim Tam Quốc Chí tập III, chỉ còn đúng mấy viên gạch vừa đủ chỗ cho tấm nệm mỏng. Tôi cởi áo nằm úp mặt xuống nệm (thấm đậm mồ hôi của nhiều bệnh nhân) để chuyên viên giác hơi vặm vỡ, lưng trần, người đầy những vết thâm do ống giác, bắt đầu quần quật trên lưng. Anh ta dùng cọng thép cột bông gòn thấm cồn và cứ thế châm lửa cho vào ống đốt dưỡng khí (và sát trùng?) rồi chụp nhanh trên lưng. Chỉ một lát sau, lưng tôi đeo một loạt ống giác thủy tinh hút phồng những mảng da và chuyển từ màu hồng, sang đỏ và bầm tím. Tôi hỏi “Có gió không anh,” và được chuyên viên (chắc chắn là không có bằng hành nghề) giải đáp như một bác sĩ y khoa 25 năm kinh nghiệm: “Anh mà để tới ngày mai là tiêu.” Tôi không hỏi tiếp “tiêu” là như thế nào có phải là “tiêu tùng hay tiêu diêu.” Nhưng sau chừng 20 – 30 phút tẩm quất, giác hơi và xoa bóp thì rõ ràng tôi cảm thấy thơ thới, mũi thông thoáng, nhẹ người hơn. Về nhà không quên bồi thêm Tylenol và Vitamin C chuẩn bị từ bên bển và đến sáng hôm sau lại cỡi xe ôm đi vùng xa, vùng trong cho công việc. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là cái nón (mũ) bảo hộ khi sử dụng xe ôm. Lái xe luôn luôn có sẵn nón phụ để cho khách mượn và cái nón đó có thể đến … 86 triệu người đã xài qua rồi. Đội hay không tùy bạn, nhưng không đội thì xe không chạy.

Tôi đến Hà Nội vào lúc thủ đô chuẩn bị kỷ niệm 1,000 năm. Thật tình không biết nghìn năm trước Thăng Long như thế nào – cụ rùa Hồ Gươm may ra có thể biết, nhưng Hà Nội hôm nay cũng như Sài Gòn đang tiếp tục vươn cao hơn và mở rộng hơn bằng cách đập sạch, phá sạch để xây mới. Đường phố lúc nào cũng nghẹt xe, kẹt xe, không ngớt tiếng còi xe: dường như người ta không thể không bóp còi để rồi chẳng ai chịu nhường ai. Người dân địa phương quá quen với tiếng ồn xe lại nhìn Thăng Long đổi mới ở góc độ bức xúc khác, nhưng rất Hà Nội: “Sau khi đập tan được chế độ phong kiến, ta lại thay bằng chế độ phong … bì – vui vẻ cả làng và đôi bên cùng có lợi.” Tuy vậy không phải tất cả đều lấp ruộng xây nhà, đập cũ xây mới, thế nên tại một công viên trên đường Điện Biên Phủ, lãnh tụ V.I Lê Nin vẫn còn đó. Ông đứng hùng dũng tay phải vạch áo từ 2003 đến giờ. Trong di sản của ông có thư viết ngày 19 tháng Ba, 1922 gởi ông Molotov và thành viên Bộ Chính Trị, trong đó ông vạch ra một kế hoạch hành động đầy bạo lực chống lại giới tăng lữ cùng các môn đệ có ý thách thức quyền lực của nhà nước Sô-Viết. Thư có đoạn: “Chúng ta phải … cương quyết và tàn nhẫn dẹp tan mọi chống đối một cách hung bạo để họ không thể nào quên trong hàng chục năm tới. Chúng ta càng triệt hạ được bao nhiêu đại diện giới tăng lữ và giai cấp tư sản phản động thì càng tốt bấy nhiêu …” Sao lại có người ác thế hả giời!

Trong thời gian làm việc tại Việt Nam các nhà báo, các giới chức ở đây mà tôi có dịp tiếp xúc đều mong tôi có nhiều bài viết để người Mỹ (và Mỹ gốc Việt) hiểu hơn về hậu quả độc hại kéo dài của Chất Da Cam. Và có lẽ sợ người Mỹ không hiểu nên phía Việt Nam dự kiến sang năm đâm đơn kiện nữa và hiện đang chuẩn bị chứng cứ thủ tục. Cả ba lần trước kiện tại tòa New York để đòi bồi thường đều bị bác đơn, lần này Việt Nam sẽ kiện tại một bang khác. Việc ai làm thì cứ làm, nhưng phải thú thật rằng nhìn thấy hàng trăm trẻ mang đủ thứ hình thù quái dị: không mắt, không hậu môn, không chân, thiếu tay, đầu to … được cho là do tác hại của Da Cam/dioxin, người ta khó có thể không bị xúc động xót xa cho hoàn cảnh đáng thương của những con người vô tội.

Sau cùng trước khi về lại bên kia, tôi muốn nhắn lời cám ơn sâu xa đến các gia đình nghèo và quá nghèo lại phải nuôi con dị dạng, đã không ngại mời tôi về nhà, trả lời những câu hỏi nhạy cảm, rất riêng tư cũng như tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn tất công tác tốt đẹp và thành công. Đa tạ.

Saturday, August 28, 2010

Cái Loa

Trịnh Hội

Sau khi bài viết “Khẩu Hiệu” được đăng, một số bạn đọc có nhắc đến những cái loa phường ở Việt Nam sáng nào cũng được cho ra rả từ Bắc đến Nam để dạy dỗ dân chúng sống sao cho xứng đáng là con dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đúng nghĩa.
Nó làm cho tôi nhớ lại lần đầu tiên tôi về lại Việt Nam để sống và làm việc ở Hà Nội vào giữa thập niên 90. Lúc ấy Hà Nội không giàu có và đường không chật đầy xe hơi như bây giờ. Bước xuống máy bay tại sân bay Nội Bài tôi vẫn còn nhớ là mọi hành khách đều được cho vào một chiếc xe bus cũ như không thể nào cũ hơn được nữa để đến nơi làm thủ tục hải quan. Không những ghế cái thì thủng đáy, cái lại chỉ còn sườn không mà ngay cả tấm sắt to nằm ở phía sau xe để che khuất máy và quạt cũng đã biến mất tự bao giờ. Báo hại mới nhìn vào ai cũng trố mắt ngạc nhiên chẳng biết xe có còn chạy được nữa không!
Và đấy cũng là những hình ảnh đầu tiên đập vào mắt người ngoại quốc vừa đến Việt Nam lúc đó.
Nhưng đối với tôi, điều làm cho tôi nhớ nhất trong khoảng thời gian ấy không phải là một sân bay quốc gia Nội Bài quá cũ kỹ. Hay một thành phố vẫn còn nhiều người dắt con đến từng nhà để xin ăn. Mà là những cái loa sáng nào cũng được cho oang oang từ đầu làng đến cuối xóm bất kể người dân có thích hay không. Hay có hiệu nghiệm gì không trong công việc dạy dỗ con dân theo cách nhồi sọ của Xã Hội Chủ Nghĩa.

Ðặc biệt là cái loa được treo sát cạnh nhà tôi nằm gần góc đường Bà Triệu và Ðại Cồ Việt trong quận Hai Bà Trưng không xa trung tâm quá là bao. Hôm thì loa thông báo về lễ kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân ta. Sang sáng hôm sau thì loa lại nhắc nhở mọi người dân cần phải đi... hốt rác.
Nhưng đáng nhớ nhất là lời thông báo dưới đây mà mãi cho đến bây giờ gần 15 năm sau tôi vẫn còn nhớ như in, từng lời, từng chữ và đặc biệt là giọng đọc đặc sệt của người miền Bắc sau này làm cho tôi không thể nào quên được. Vì nó đã được đọc đi, đọc lại ra rả mỗi sáng trong mấy tháng liền làm cho tôi và chắc chắn là rất nhiều người dân trong quận không thể nào ngủ được. Mặc dù lúc ấy trời chỉ vừa tờ mờ sáng.
Thông cáo được đọc như sau (và xin nhớ là phải đọc với giọng nữ miền Bắc chuẩn sau 1975 nhé):

“Thông cáo, thông cáo, xin thông cáo
Hôm nay ngày mồng chín tháng Ba
Nhân dân quận Hai Bà Trưng chúng ta
Quyết tâm không đẻ sớm
Nam hai mươi nhăm, nữ hai mươi tư
Xin quyết tâm như thế
Thông cáo, thông cáo, xin thông cáo
...”

Thật đấy bạn ạ. Tôi xin thề tôi đã không thêm bớt một chữ nào vào bản thông cáo ấy. Và ‘quyết tâm’ hay ‘không đẻ’ đều là những từ nguyên thủy được dùng để thông báo cho mọi người cùng rõ. Sang hôm sau chỉ có số ngày là được đổi. Còn nội dung thì vẫn được giữ y như thế. Không những vậy vài tháng sau có lẽ vì sợ người dân chưa hiểu thấu, các đồng chí lại cho dựng ngay một khẩu hiệu to đùng nằm ngay giữa đường Ðại Cồ Việt cũng với nội dung tương tự:

“Nhân dân quận Hai Bà Trưng
Quyết tâm không đẻ sớm
Nam hai mươi nhăm, nữ hai mươi tư”

May là lúc ấy tôi cũng vừa ở độ tuổi hai mươi lăm, lại chưa vợ nên đã chăm chỉ nghe lời chỉ dạy quyết tâm không đẻ! Chứ nếu không (nhất là đối với những ai có vợ đang nằm phơi phới bên cạnh) sáng sớm tinh sương đang ngủ say lại bị loa phóng thanh dựng dậy để nhắn nhủ đôi lời, không chừng bực bội lại không có chuyện gì làm khi trời hãy còn quá sớm thôi thì đành quay qua ... làm một cái cho bõ ghét!
Ý tôi nói phản tác dụng là vì thế.
Cho đến bây giờ đôi khi tôi vẫn thắc mắc không biết hàng xóm tôi ở quận Hai Bà Trưng lúc ấy có ai đã từng quyết tâm ... làm một cái cho bõ ghét cái loa không đẻ sớm hay không?