Thursday, January 22, 2015

"Foa" Đã Trở Lại



Đức Hà
Sau bao nhiêu tranh cãi, tranh tụng, người phản đối, kẻ ủng hộ, lời qua tiếng lại kể cả ngăn sông cấm chợ, món ăn khoái khẩu, đặc sản của Pháp - có thể so sánh như trứng cá muối caviar của Nga hay phở của ta, đã trở lại trên bàn nhậu USA. Đúng vậy, "foa" đi và "foa" đã trở lại.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 2012 khi tòa California - được sự vận động của liên minh các tổ chức bảo vệ súc vật, ra phán quyết khai tử món pâté foie gras trên toàn lãnh thổ California. Việc cấm đoán lan dần sang Chicago và sang cả trời Âu - Đan Mạch, Phần Lan, Đức đều cấm sản xuất foie gras.

Lý do cấm: độc ác và vô nhân đạo. Theo truyền thống xưa nay, phương cách sản xuất pâté foie gras tức pâté gan ngỗng hay gan vịt ở Pháp là nhồi nhét thức ăn tối đa bằng ống nhựa vào cổ họng ngỗng để vỗ béo lá gan thật to; sau đó cắt tiết ngỗng lấy gan làm pâté. Công nhân trại ngỗng bắt từng con, kẹp vào giữa hai đùi, tay trái nắm cổ con thú, tay phải cầm ống plastic thực phẩm cắm sâu vào cổ ngỗng; hệ thống ống từ trần nhà cứ thế dùng hơi tống mạnh thực phẩm vào con ngỗng. Cứ như vậy ba lần trong ngày, kéo dài trong ba tuần liền. Kết quả là con ngỗng no căng diều. Căng cứng, căng kềnh. Lá gan phình to gấp 10 lần hơn bình thường, không còn chức năng hoạt động của gan. Dĩ nhiên con gia cầm với bụng chướng to, không thể đi đứng bình thường. Ngay tại Pháp, nhóm Stopgavage cũng thu thập hơn 20 triệu chữ ký vận động chấm dứt hành hạ ngỗng để lấy gan. Cụ thể là 47% dân Pháp - tức cứ gần một trong hai người, có chủ trương cấm hình thức nhồi nhét thực phẩm cho ngỗng. Khoảng 29% những người được phỏng vấn phát biểu rằng họ tẩy chay luôn món này. Ở Mỹ người ta cũng nuôi bò thế nào để cho thật nhiều sữa, gà đẻ thật nhiều trứng nhưng không dùng phương pháp ép ăn để tăng sản lượng sữa hay trứng. Thế là vào năm 2004 California bang đầu tiên đi tiên phong trong việc cấm bày bán, cấm nhà hàng phục vụ món ăn béo ngậy này. Tám năm sau, luật số S.B. 1520 có hiệu lực vào ngày một tháng Bẩy năm 2012. Mọi vi phạm bán hoặc buôn có thể bị phạt mỗi lần đến một ngàn đồng.

Chủ Tịch Thượng Viện tạm lúc bấy giờ là ông John Burton của Nghị Viện California ở Sacramento nói rằng nhồi nhét như vậy là vô nhân:
"Chúng ta không nên đưa một ống cao su vào cổ ngỗng để tống thực phẩm vào nhằm mục đích làm pâtê gan. Nhiều quốc gia đã cấm món này và tôi rất vui khi thấy California cũng sẽ được nằm trong danh sách này."
Luật cấm có điều khoản gỡ gạc - theo đó các nhà sản xuất có thời gian tám năm để đề xuất phương pháp nuôi ngỗng không nhồi nhét. Tuy nhiên mấy ông Tây chăn nuôi - với tư duy bảo thủ,  không nghĩ ra được cách nào khác ngoài cách làm từ ngàn xưa đến nay: nhồi và nhét.
Và rồi khi luật có hiệu lực báo chí đã chạy tít giật gân: "Một Cái Tát Vào Mặt Dân Khoái Khẩu Foie Gras." Thế nhưng, tám năm chưa hết thì luật lại được sửa - lần này nghiêng về phía dân sành điệu.

Luật Vi Hiến

Tháng 10 năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đồng lòng với luật California theo đó California được phép tiếp tục cấm chỉ món foie gras khi từ chối duyệt xét đơn kháng án. Quyết định này được xem là một thắng lợi của các nhóm bảo vệ phúc lợi súc vật chống lại nhóm nhà hàng và các nhà nhập khẩu foie gras. Cựu nghị viên John Burton, người đề xuất luật cấm này phát biểu:
"Đây là một nỗ lực lâu dài, kiên cường. Nhưng rất xứng đáng để đấu tranh, rất xứng đáng để thắng lợi."
Thế nhưng phán quyết chưa hết tranh cãi - giữa hai phe: một bên bênh gia cầm và bên kia bênh thực khách, thì luật lại được đảo ngược.

Thẩm phán liên bang Stephen V. Wilson, tòa US District giải thích rằng luật cấm sản xuất và bán foie gras không hợp hiến vì can thiệt vào luật liên bang hiện hành theo đó đã có những quy định đầy đủ về sản phẩm từ gia cầm.
Liên minh các tổ chức bảo vệ súc vật, kể cả Quỹ Pháp Lý Súc Vật và Hội Humane Society (http://www.humanesociety.org) là hội bảo vệ thú lớn nhất và hữu hiệu nhất Hoa Kỳ, cùng ra thông báo báo chí với cam kết sẽ kháng tố với nội dung như sau: "Bang Cali rõ ràng có đủ thẩm quyền cấm bán sản phẩm bắt nguồn từ sự độc ác của con người với mọi súc vật, và chúng tôi kỳ vọng tòa 9th Circuit sẽ duy trì luật này, như từng làm trong những tranh tụng trước đây. Chúng tôi thỉnh nguyện Bộ Trưởng Tư Pháp Cali đệ nạp ngay đơn kháng án."
Nhóm chủ trương thông cảm nỗi đau của thú lại mạnh miệng hơn bao giờ. Chủ Tịch Ingrid E. Newkirk của hội Đối Xử Nhân Bản với Thú khẳng định: "Foie gras là món gan béo (fatty liver) của Pháp, còn đần độn (fathead) là tiếng của người Mỹ để gọi bọn đầu bếp không biết nhục khi cần phải có luật để cấm họ phục vụ khách ăn những món bắt nguồn từ những con vật bị xình chướng cơ phận - thiếu điều muốn nổ bung, khi nhồi ăn một cách tàn ác."

Những phát biểu căng thẳng, đổ lửa đó hầu như không làm nao núng mấy chefs, mấy chủ quán ăn đang hân hoan vì tin xả trại. Họ từng băn khoăn bức xúc từ hơn hai năm qua vì không được đưa món pâté foie gras đến với khách hàng. Hệ thống nhà hàng Hot's Restaurant Group ở California, nhà sản xuất Hudson Foie Gras ở New York, hiệp hội các nhà chăn nuôi vịt và ngỗng ở Quebec, Canada đã cùng nhau thách thức luật cấm ở California và đệ đơn kháng án và thành công. Tuy nhiên California vẫn có thể kháng án phán quyết của tòa US District.
Nhóm chống đối cũng có thái độ phản bác không kém kiên cường: "Sẽ cho vẽ một lằn vạch phía trước các nhà hàng phục vụ trở lại món được gọi là 'tra tấn ngỗng' này" và thề quyết rằng "Bất cứ kẻ nào bước ngang lằn vạch đó đều được coi như tự xác định mình là kẻ hám ăn không tự kiểm soát được đến độ phải tra tấn thú vật."

Người Việt

Dường như người Việt nhìn vấn đề thông thoáng hơn, nặng phần của kẻ có tâm hồn ăn uống bao la. Hỏi thăm vài ba người cho bài viết này thì mỗi người trả lời một kiểu - kiểu nào nghe ra cũng hợp tình hợp lí.
Người A (có nhiều khả năng bị cao mỡ trong máu) trả lời: bỏ thịt từ lâu, thành thử có "foa" hay không có "foa" không thành vấn đề.
Người B xuề xòa: có thì ăn không có thì thôi, hơi đâu kiện với cáo. Nỡm chửa!
Người C sành điệu: ở đời cái gì ngon phải chén - chén cho biết. Xuống kia làm gì có mà ăn. Anh này còn chua thêm "foa gra" nhớ phải đi kèm với Sauternes hay Chardonnay đấy.
Người D (chắc là dân chuyên trị cày tơ chỉ thích chó): Sao mà rắc rối quá, chỉ lo con bò trắng răng.
Xin thưa rằng, nếu có dịp ngồi ở một trong hàng trăm quán nho nhỏ ngay lề đường trong khu gần La Fontaine St. Michel ở Paris và kêu món entrée foie gras chiên cháy cạnh với vài miếng bánh mì nóng giòn thì thú thật chẳng còn gì để than thân trách phận nữa. Và đó là một trong những món tiêu biểu của Pháp mà sách vở nói rằng cần phải thử trước khi ... lìa trần.

Cấm rồi lại không cấm, rõ ràng đã tạo nên sức mạnh của một đất nước hành xử bằng luật pháp công minh, ý dân là ý Trời nhưng phải đúng luật -  tuy vậy nói cho cùng, vụ việc này cũng làm tốn không ít giấy mực và tốn cả thời gian của mấy nhà làm luật và tất nhiên luôn cả tiền đóng thuế của nhân dân.

Sunday, January 18, 2015

Lettre à Ma Fille, au lendemain du 11 Janvier 2015


JMG Le Clézio
Pris Nobel de Littérature
 

Tu as choisi de participer à la grande manifestation contre les attentats terroristes. Je suis heureux pour toi que tu aies pu être présente dans les rangs de tous ceux qui marchaient contre le crime et contre la violence aveugle des fanatiques. J’aurais aimé être avec toi, mais j’étais loin, et pour tout dire je me sens un peu vieux pour participer à un mouvement où il y a tant de monde. Tu es revenue enthousiasmée par la sincérité et la détermination des manifestants, beaucoup de jeunes et des moins ­jeunes, certains familiers de Charlie Hebdo, d’autres qui ne le connaissaient que par ouï-dire, tous indignés par la lâcheté des attentats. Tu as été touchée par la présence très digne, en tête de cortège, des familles des victimes. Emue d’apercevoir en passant un petit enfant d’origine africaine qui regardait du haut d’un balcon dont la rambarde était plus haute que lui. Je crois en effet que cela a été un moment fort dans l’histoire du peuple français tout entier, que certains ­intellectuels désabusés voudraient croire frileux et pessimiste, condamné à la soumission et à l’apathie. Je pense que cette journée aura fait reculer le spectre de la discorde qui menace notre société plurielle. Il ­fallait du courage pour marcher désarmés dans les rues de Paris et d’ailleurs, car si parfaite soit l’organisation des forces de police, le risque d’un attentat était bien réel. Tes parents ont tremblé pour toi, mais c’est toi qui avais raison de braver le danger. Et puis il y a toujours quelque chose de miraculeux dans un tel moment, qui réunit tant de gens divers, venus de tous les coins du monde, peut-être justement dans le regard de cet enfant que tu as vu à son balcon, pas plus haut que la rambarde, et qui s’en souviendra toute sa vie.

Cela s’est passé, tu en as été témoin.

 Ils ne sont pas des barbares

Maintenant il importe de ne pas oublier. Il importe – et cela revient aux gens de ta génération, car la nôtre n’a pas su, ou n’a pas pu, empêcher les crimes racistes et les dérives sectaires – d’agir pour que le monde dans lequel tu vas continuer à vivre soit meilleur que le nôtre. C’est une entreprise très difficile, presque insurmontable. C’est une entreprise de partage et d’échange. J’entends dire qu’il s’agit d’une guerre. Sans doute, l’esprit du mal est présent partout, et il suffit d’un peu de vent pour qu’il se propage et consume tout autour de lui. Mais c’est une autre guerre dont il sera question, tu le comprends : une guerre contre l’injustice, contre l’abandon de certains jeunes, contre l’oubli tactique dans lequel on tient une partie de la population (en France, mais aussi dans le monde), en ne partageant pas avec elle les bienfaits de la culture et les chances de la réussite sociale. Trois assassins, nés et grandis en France, ont horrifié le monde par la barbarie de leur crime. Mais ils ne sont pas des barbares. Ils sont tels qu’on peut en croiser tous les jours, à chaque instant, au lycée, dans le métro, dans la vie quotidienne. A un certain point de leur vie, ils ont basculé dans la délinquance, parce qu’ils ont eu de mauvaises fréquentations, parce qu’ils ont été mis en échec à l’école, parce que la vie autour d’eux ne leur offrait rien qu’un monde fermé où ils n’avaient pas leur place, croyaient-ils. A un certain point, ils n’ont plus été maîtres de leur destin. Le premier souffle de vengeance qui passe les a embrasés, et ils ont pris pour de la religion ce qui n’était que de l’aliénation. 

Il faut remédier à la misère des esprits

C’est cette descente aux enfers qu’il faut arrêter, sinon cette marche collective ne sera qu’un moment, ne changera rien. Rien ne se fera sans la participation de tous. Il faut briser les ghettos, ouvrir les portes, donner à chaque habitant de ce pays sa chance, entendre sa voix, apprendre de lui autant qu’il apprend des autres. Il faut cesser de laisser se construire une étrangeté à l’intérieur de la nation. Il faut remédier à la misère des esprits pour guérir la maladie qui ronge les bases de notre société démocratique.

Je pense que c’est ce sentiment qui a dû te frapper, quand tu marchais au milieu de cette immense foule. ­Pendant cet instant miraculeux, les barrières des classes et des origines, les différences des croyances, les murs séparant les êtres n’existaient plus. Il n’y avait qu’un seul peuple de France, multiple et unique, divers et battant d’un même cœur. J’espère que, de ce jour, tous ceux, toutes ­celles qui étaient avec toi continueront de marcher dans leur tête, dans leur esprit, et qu’après eux leurs enfants et leurs petits-enfants continueront cette marche

Ce texte a été ecrit par JMG Le Clézio, Prix Nobel de littérature. 
Il a été publié dans le Monde.fr le 14/01/2015.
http://www.lemonde.fr/livres/article/2015/01/14/lettre-a-ma-fille-au-lendemain-du-11-janvier-2015-par-jmg-le-clezio_4556225_3260.html?xtmc=lettre_a_ma_fille&xtcr=4

Sunday, January 4, 2015

Những Tiếng Hát Của Tôi



Nguyễn Xuân Hoàng

Tôi nói những tiếng hát của tôi, những tiếng hát đã cùng sống với tôi, cùng lớn lên với tôi, và cùng... thở với tôi.
Những tiếng hát vang lên trong lồng ngực tôi khi tôi đau khổ cũng như khi tôi cực kỳ hạnh phúc. Những tiếng hát thời thơ ấu của tôi, những tiếng hát khi tôi mới vào đời, những tiếng hát nghe vẳng bên tai trong những ngày khốn khó... ở Nha Trang, Sài Gòn, Đà Lạt, Rạch Giá, Bataan-Phi Luật Tân hay Hoa Thịnh Đốn, Quận Cam… Những tiếng hát nghịch ngợm khi bọn chúng tôi gặp nhau trong những buổi họp mặt bạn bè. Những tiếng hát thầm trong cuống họng khi tôi nằm tù ở Kinh Làng Thứ Bảy, U Minh. Những tiếng hát đã theo tôi đi khắp nơi trong cuộc sống tôi. Những tiếng hát đã làm
thành một phần đời tôi.

Tôi không nhớ tiếng hát đầu tiên đến với tôi là tiếng hát của ai. Có lẽ là của mẹ tôi. Tiếng hát ru, rất buồn của một phụ nữ tất tả ngược xuôi, suốt đời chưa một ngày hạnh phúc. Mẹ tôi hát ru cho anh tôi, cho tôi, cho các em tôi và rồi hát tiếp cho các cháu tôi. Tôi đã mang tiếng hát đầy vần điệu và bi thảm ấy của bà vào đời. Tiếng hát úa vàng theo năm tháng.
Nhưng tiếng hát ấy không chết. Và rồi tôi nghe Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc. Buồn như Bà Mẹ Gio Linh, vui như Ngựa Phi Đàng Xa.... Và tôi nghe Thanh Thúy Nửa Đêm Ngoài Phố, nghe Lệ Thu Tình Khúc Thứ Nhất, nghe Khánh Ly của Từ Lúc Đưa Em Về là biết xa nghìn trùng, những lời ca buồn trong một cuộc chiến ngày càng đổ dồn về các tỉnh thành. Chiến tranh bi thảm như những ca khúc mà tôi nghe thuở đó. Rồi Lê Uyên & Phương một hôm bỗng tách ra dòng nhạc quen thuộc bằng những ca khúc gào thét xót xa về một cuộc tình đam mê giông bão; rồi Nguyễn Đức Quang đột ngột với Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.... những ca khúc làm người ta đứng lên chứ không phải ôm đầu ngồi xuống...
   
Tất cả những tiếng hát ấy đã thâm nhập vào tôi... trở thành một phần máu thịt tôi. Tôi yêu tiếng hát Khánh Ly, yêu kỳ lạ như mối tình đầu khi nghe chị hát ở sân trường Đại Học Văn Khoa, Sài Gòn.... Đó là một tiếng hát bóp trái tim người nghe. Đau nhói. Thơ mộng. Xót xa. Trữ tình ...  Và sau cùng chiến tranh kết thúc, cũng là lúc nhiều người trong chúng tôi phải ra đi. Ra đi, tay không, nhưng trong hành trang không thiếu những tiếng hát quá khứ đã làm thành kỷ niệm. Tôi nhớ, năm 1986, sau mấy tháng từ bên trại tị nạn qua, lần đầu tiên từ Virginia xuống Quận Cam, ông bạn Đỗ Đình Tuân trên đường chở tôi đi tìm một chỗ trọ, đã cho tôi nghe một tiếng hát mà ông nói rằng đó là tiếng hát rất hay và đầy triển vọng. Người hát là Khánh Hà. Tôi chỉ là một người nghe nhạc bình thường như mọi người. Tôi không có khả năng thẩm âm. Những tiếng hát nào làm tôi rung động, tôi yêu tiếng hát đó. Tiếng hát Khánh Hà khàn đục ẩm ướt, đó là một tiếng hát buồn, nó vuốt ve được nỗi đau của tôi, một người chân ướt chân ráo từ trại tị nạn sang sau 10 năm ở lại Việt Nam. Rõ ràng là những khúc buồn ở lâu trong tôi hơn là những khúc vui. Khi người ta vui, người ta có nhiều việc để làm hơn là khi người ta buồn. Ở rừng U Minh, trong những ngày tù tội, tôi khám phá ra những bài hát – mà người ta vẫn cho là “sến” nhất – lại trỗi dậy trong tôi rõ nhất. Kỳ lạ thay âm nhạc. Tối thứ Năm tuần cuối tháng Mười vừa qua, tình cờ mở TV tôi thấy một chương trình nhạc – hình như là để gây quỹ cho phụ nữ bị ung thư ngực? – tôi nhìn thấy một nữ ca sĩ, Dolly Parton, người mà tôi không thích tí nào mỗi khi nhìn thấy bà trên màn ảnh, một tình cảm hoàn toàn chủ quan, vô cớ và tất nhiên đừng bắt tôi giải thích vì sao. Tôi định bật sang đài khác thì tôi nghe người dẫn chương trình giới thiệu bài nhạc sau cùng, ca khúc có tên là Jolene của Dolly Parton. Tôi không ngờ bà cũng là người viết nhạc. Một ca sĩ trẻ bước ra, rồi nhiều ca sĩ khác ra, cả người dẫn chương trình và sau cùng là Dolly Parton. Lời bài hát, tôi nghĩ là buồn, lời của một phụ nữ van xin một người nữ khác hãy buông tha người yêu của cô, đừng bắt hồn người đàn ông mà cô đang say đắm.

   Jolene, Jolene, Jolene, Jolene
   I’m begging of you please don’t take my man
   Jolene, Jolene, Jolene, Jolene
   Please don’t take him just because you can
   ....
   He talks about you in his sleep
   There’s nothing I can do to keep
   From crying wh en he calls your name, Jolene
   And I can easily understand
   How you could easily take my man
   But you don’t know what he means to me,
   Jolene, Jolene, Jolene, Jolene,

 “Tôi biết cô có thể chọn được những chàng trai khác, còn tôi, tôi không bao giờ còn có thể yêu ai được nữa, chàng là mối tình duy nhất của đời tôi. Jolene ơi, tôi phải nói điều này với cô. Hạnh phúc của tôi tùy thuộc vào cô, Jolene ơi!”

Lời cầu xin van nài tràn ngập bài hát, nhưng bài hát nghe thật vui như thể những lời mỉa mai, cay đắng hơn là một điệu buồn rũ rượi... Ca khúc đó Dolly Parton viết năm nào? Có phải cách đây đã ba thập kỷ và năm 1999 mới lại tái xuất hiện trong album của Parton? Đối với tôi, một người dốt nát về nhạc, niềm vui đến từ âm điệu hơn là đến từ sự phân tích. Liệu ở Mỹ giờ đây người ta còn nghe những ca khúc viết cách đây từ ba bốn thập niên? Tôi không nói nhạc cổ điển mặc dù qua bao nhiêu thế kỷ nhạc cổ điển đâu đã lung lay. Tôi muốn nói nhạc rock đầu những năm 50, và gần đây nhạc rap và nhạc hip-hop, có vẻ như vẫn còn sống lâu.
Theo Tim Smith, nhà phê bình nhạc cổ điển của tờ Baltimore Sun, thì "Với việc nhiều đài phát thanh vẫn phát ‘các ca khúc nổi tiếng của thập niên 80, 90 của thế kỷ trước và hiện  nay’, phong cách nhạc pop cũ vẫn tiếp tục là một bộ phận vững chắc trong nền âm nhạc Hoa Kỳ."
Tôi nghĩ, những ca khúc của Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn... cũng sẽ còn lâu mới bị quên lãng. Và rồi đây, Thái Thanh tuy không còn hát nhưng khi nghe và xem Ý Lan trình diễn, tôi khám phá ra kỷ niệm tôi vẫn còn đó. Ý Lan hát bằng tất cả cái vẻ mềm mại tràn ngập nữ tính của cô. Cô hát như một phô diễn về thời trang và nhan sắc. Tiếng hát của cô luôn luôn mang cái âm điệu mời gọi, nó đang trở thành là một trong những tiếng hát làm thành một mảng sống ở hải ngoại.
Và ai nữa? Nhiều chứ. Làm sao tôi quên được tiếng hát Ái Vân. Ở xa ViệtNam, tiếng hát Ái Vân là một bù đắp cái khoảng trống quê hương. Chiếc áo cô mặc khi trình diễn, bước chân cô di chuyển trên sân khấu, âm điệu luyến láy ở mỗi nốt nhạc, Ái Vân hát với tất cả hồn tính và Việt tính nơi cô. Tôi yêu tiếng hát của cô như yêu cái phần tôi tìm kiếm mãi cho mình mà không ra.

Không một dân tộc nào thiếu tiếng hát của riêng mình. Không một người nào thiếu tiếng hát của cá nhân mình. Tuổi trẻ chúng ta đi qua, nhưng những tiếng hát vẫn còn y nguyên trong những chiếc đĩa nhạc cũ kỷ của mỗi người. Tôi nghĩ, đôi khi nỗi buồn trong âm nhạc cũng là một sức mạnh. Sự khốn cùng có thể làm người ta đứng dậy như nỗi đau tận cùng của một âm điệu cũng làm người ta vùng lên làm nên giông bão.
Trong ý nghĩ đó tôi muốn viết về một tiếng hát của tôi: Lệ Thu, một trong số ít tiếng hát không ngừng chinh phục người nghe. Từ hơn ba thập niên qua, tiếng hát của cô mỗi lần cất lên đều khiến người nghe phải dừng lại. Tiếng hát trời cho ấy phát ra từ một trái tim và đi thẳng vào trái tim người nghe để trở thành kỷ niệm. Dù bài hát ấy được nghe ở một phòng trà giữa một Sài Gòn tưởng chừng như không có bóng dáng của chiến tranh, hay trong một nơi trú quân xa gần biên giới, tiếng hát ấy luôn mang theo cái không khí lãng mạn mà không bi thảm, buồn bã mà không sướt mướt.
Trong tiếng hát của cô, người nghe khám phá ra sự quyến rũ cuả âm thanh, sự sáng tạo của âm điệu và lòng tự tin. Tiếng hát của cô chuyên chở một hơi thở mới trong nhịp và nhấn, trong luyến láy và gợi cảm. Lệ Thu hát say mê như thể quanh cô không còn ai ngoài cô và chính tiếng hát của mình. Cô không hát chỉ như một ca sĩ, cô còn hát như một nghệ sĩ. Nghe Lệ Thu trình bày Tình Khúc Thứ Nhất của Vũ Thành An, hay Ngậm Ngùi của Phạm Duy, người nghe biết rằng sau cô, những tiếng hát khác sẽ không hát như thế, không hát được như thế. Phát âm rất chuẩn, giọng vang và rõ, tiếng hát của Lệ Thu thoát ra từ một lồng ngực khoẻ mạnh và một trái tim đam mê. Lệ Thu không hát từ cổ họng. Chúng ta hiểu vì sao cô không nhận hát bất cứ một ca khúc nào. Cô chọn bài hát, cô đọc từng ca từ, cô dạo nhạc để nghe tiết tấu của âm điệu. Và cô hát trước hết vì cô yêu ca khúc cô đã chọn.

Ở Sài Gòn hồi đó, cái thời chiến tranh còn mấp mé ở ven biên, nhưng lựu đạn cay đã ‘xuống đường’ tràn ngập phố phường, vào một tối thứ Năm, qua chương trình nhạc
chủ đề do Nguyễn Đình Toàn phụ trách, tôi nghe Lệ Thu hát. Những tình khúc xót xa hay đam mê cất lên giữa một cuộc chiến buồn bã. Thời đất nước không có một niềm vui. Tiếng hát Lệ Thu, dù sao rất ngậm ngùi. Trước Hạ Trắng, trước cả Lời Buồn Thánh, ca khúc Việt Nam đầu tiên mà Lệ Thu hát là Xin Mặt Trời Ngủ Yên của Trịnh Công Sơn.
Chắc cô hiểu vì sao mình đã chọn ca khúc đó, tôi nghĩ như vậy. Bước chân đầu đời dẫn cô nữ sinh Bùi Thị Oanh, trường Les Lauriers đến gần chiếc micro ở nhà hàng Bồng Lai với bài Tà Ao Xanh năm 1960 thoáng chốc trở thành ca sĩ Lệ Thu của những ca khúc Serenade, Smoke Gets In Your Eyes, La Vie En Rose, Les Feuilles Mortes… Đó là thời gian Sài Gòn nổi lên các tiếng hát Bạch Yến, Bích Chiêu, những tiếng hát đã tạo cho  mình một chỗ đứng riêng, nhưng Lệ Thu bằng nhân dáng và nhân cách của mình, cô đã vẽ được quanh cô một vầng sáng khác biệt. Tiếng hát của cô vượt lên một khoảng trời khác, như một ngôi sao giữa những ngôi sao, mà ánh sáng của nó thu hút ngay khi lần
đầu ta nhìn thấy nó. Lệ Thu trở thành ca sĩ đắt giá nhất trong những năm 70. Cái mức lương 1 trịệu đồng một tháng khi cô hát cho phòng trà Tự Do của ông Cường là cái giá kỷ lục của một ca sĩ vào thời điểm đó. Trước đó, khi bước vào phòng trà Queen Bee của Jo Marcel – và sau đó là Ritz – tiếng hát của cô đã làm Tiny Yong – một giọng hát lẫy lừng từ Pháp sang phải gẫy hợp đồng trở lại Paris. Đó là thời gian người ta khám phá ra một Lệ Thu đầy ấn tượng. Lệ Thu hoàn toàn làm chủ sân khấu của mình. Người nghe đòi hỏi tiếng hát của cô, phải có tiếng hát của cô. Và cô biết tại sao mình phải chọn ca khúc nào cho người nghe của mình.
Khác với Thái Thanh tiếng hát gắn liền với nhạc Phạm Duy; hay Khánh Ly, gần gũi nhạc Trịnh Công Sơn, Lệ Thu không ngã về một nhạc sĩ nào. Cô hát những ca khúc cô yêu thích. Cái thế giới âm nhạc của cô rộng hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn. Cô hát nhạc Cung Tiến, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Trường Sa, Trần Trịnh, Đoàn Chuẩn-Từ Linh… Từ Ngậm Ngùi, Bên Cầu Biên Giới, Đường Em Đi, Lệ Đá, Hương Xưa, Tà Áo Xanh, đến Nước Mắt Mùa Thu… Lệ Thu như một người giữ bảo tàng những tình khúc của âm nhạc Việt Nam.

 Mặc dù cô khiêm tốn cho rằng những bài cô không chọn để hát không phải vì những bài ấy không hay, nhưng rõ ràng những ca khúc mà cô quyết định chọn trong nhạc lịch của mình, cô đã mang hơi thở cho đời sống của tác phẩm và tác giả. Phải nói những ca từ của một bài nhạc đã thu hút cô trước khi âm điệu của nó quyến rũ cô. Người ta không ngạc nhiên khi nghe cô trả lời phỏng vấn bằng một thứ ngôn ngữ khá trí tuệ. Lệ Thu thuộc lớp ca sĩ kiểu như Juliette Greco của Pháp với những ca khúc Sous Le Ciel de Paris, Je Hais Les Dimanches, SiTu T’Imagines... Cái khác là trong khi Juliette Greco với y phục toàn đen, đôi mắt đen, mái tóc dài đen, hát trong hầm tối, thì Lệ Thu tươi tắn hơn,
hồng hào hơn, sống động hơn, hát trong phòng trà nơi người ta đến để khiêu vũ. Nhưng khi Lệ Thu cất tiếng, những điệu luân vũ đã ngừng lại. Người ta dừng chân để lắng nghe cô hát.
Giờ đây đang bước vào một thiên niên kỷ mới, thế giới âm nhạc đã mang nhiều âm điệu mới, phong cách trình diễn cũng đã khác xa cái phong cách mà Lệ Thu trước đây từng chinh phục chúng ta. Người ca sĩ ngày nay mang theo hình ảnh một vũ công: tiếng hát của họ đòi hỏi một phối hợp nhịp nhàng với các động tác múa và đôi khi rất tuồng trên sân khấu. Người nghe bị chinh phục không phải chỉ bằng tiếng hát, mà bằng âm thanh, ánh sáng, màu sắc và động tác.
Nhưng kỳ lạ thay, nghe Lệ Thu hát với một phong thái tĩnh như cách đây hàng mấy thập niên, người ta không thấy mình bị ép giữa những trang giấy cũ, những trang thư tình viết trên giấy kẻ với cây bút mực – mà tiếng hát ấy vang vọng lên như những tiếng động phát ra từ cái printer đặt dưới chân bàn. Lệ Thu vẫn mới trong một phong cách điềm đạm.  Trước đây, cô đã hát bằng hơi thở của thế hệ cô, liệu giờ đây giữa những cái mới trong
nghệ thuật trình diễn, Lệ Thu có chinh phục được người nghe của thế hệ đương đại?
Dù sao với tôi, bao giờ cũng vậy, nghe Lệ Thu hát là một hạnh phúc. Hãy nghe cô
hát, chúng ta sẽ thấy vì sao Lệ Thu không ngừng chinh phục chúng ta.

                                                   Tùy bút được đăng trên Viet Mercury số 250 11/07/2003