Tuesday, October 15, 2019

Trường Xưa: DINFOS

Đức Hà


INDIANAPOLIS, Ind. -  Tháng Giêng 1971 chiến trường Viet Nam đang ngày càng trở nên khốc liệt. Thanh niên vừa tăng viện cho tiền tuyến hôm nay hôm sau đã có giấy báo tử gởi về cho mẹ già. Không biết bao nhiêu người trẻ đã bỏ xác nơi chiến trường và nếu may mắn hơn thì được về với gia đình trên đôi nạng gỗ hay bằng chiếc xe lăn. Đời lính thời chiến là thế, sống chết kề bên nhau. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như vậy thì vài anh em chúng tôi được chuyển công tác từ phóng viên chiến trường sang sĩ quan du học Hoa Kỳ ngành báo chí. Thế là suốt mấy tháng liền không phải trực gác ứng chiến, không điểm danh chào cờ, không nghe pháo kích, không hề biết đến tờ giấy khi cầm trên tay muốn khóc ròng "sự vụ lệnh đi công tác" và tuyệt vời hơn cả là lãnh hai đầu lương: lương của đơn vị gốc và lương của trường tại Hoa Kỳ - ai mà không sướng.


Để lại phía sau một đất nước chìm đắm trong tang thương khói lửa, chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt ngày 31 tháng Chạp 1970. Phi cơ ghé Yokota, Nhật để tiếp thêm nhiên liệu, lấy thêm hành khách và trực chỉ USA. Đúng là ước mơ không dám mơ lại thành thật. Lúc đó ai cũng nghĩ đó là chuyến bay nhớ đời, mãi mãi sẽ không bao giờ có chuyến bay thứ hai nữa, nào có ngờ hơn 20 năm sau cũng mấy anh em đó - sau khi trả đủ nợ tù đày, lại được đáp chuyến bay định mệnh khác cũng từ TSN nay đổi thành Tân Sơn Nhất, chuyến đi quyết định hậu vận của những sĩ quan báo chí KQVN: đi HO.


Người Bạn Không Quen

Đời oái ăm ở chỗ này. Khi mãn khóa học Information Officer Basic Course ở Trường Báo Chí (gọi tắt là DINFOS) thuộc Bộ Quốc Phòng Mỹ ở Indianapolis, Indiana thì bất ngờ có một số anh em sinh viên Việt không quen biết không thân thuộc, đang học ở Illinois hay Michigan ghé thăm và nói thẳng thừng: "Các anh ở lại luôn đây đi, đừng dại mà về nước, chúng em sẽ giúp mọi chuyện."
Chúng tôi bắt tay nhau vui vẻ, đi ăn chung rồi chia tay, không bên nào có lời xỉa xói hay chửi bới vô văn hóa như thời nay của nhóm chống một cách điên dại những người được gán là "cuồng". Năm 1971 Tổng Thống Richard Nixon đang cầm quyền và phong trào chống chiến tranh lan rộng khắp nước. Thật tình không rõ mấy sinh viên Việt ở Mỹ dạo đó có tham gia phong trào phản chiến hay không và làm sao họ biết có chúng tôi đang ở Fort Benjamin Harrison - nhưng họ khuyên đừng về. Sau buổi gặp mặt thân tình hôm đó nhóm sinh viên trở lại trường, chúng tôi về căn cứ Travis AFB và đáp phi cơ hồi hương để hãnh diện làm nghĩa vụ của "trai thời chiến." Mãi mãi về sau mới ngộ và rút ra được bài học rằng chả cái dại nào giống cái dại nào. Nghe thấy quen quen giống chuyện tàu Việt Nam Thương Tín năm nào.
Khát vọng "xuống Đông, Đông tĩnh" không thành vì thế không đầy bốn năm sau cả đám mới ngày nào quần áo bảnh bao lịch lãm bát phố downtown Indianapolis thì nay kéo nhau vào tù để tích cực học tập cải tạo thành người tốt cho một Việt Nam XHCN. Không một ai dám mơ tưởng sẽ có ngày được đoàn tụ gia đình, chớ đừng nói đến chuyện trở lại Mỹ. Biết vậy phải chi hồi đó rủ nhau ở lại luôn USA và gia nhập cộng đồng di dân bất hợp pháp cho êm chuyện. Dại quá là dại.

Khi lê la các trại tù từ Trảng Lớn, Tống Lê Chân, Suối Máu đến Kà-Tum - không kể đến một số không may phải đi Côn Sơn, Phú Quốc, Thanh Cẩm, Yên Bái ... anh em chúng tôi lại càng nhớ những người bạn sinh viên không quen từng nhắc nhở thật tình "chớ có về nước." Cũng phải nói thêm là đã dại dột về nước thì chớ lại càng dại dột hơn nữa là chẳng chịu chạy cho nhanh vào tháng Tư, 1975. Vào năm hạn của đất nước nên cung mệnh có số tù đày.

Defense Information School

Vật đổi sao dời, gần 50 năm sau khi tóc bạc phơ, khi không ít bạn lính đã rời bỏ cõi trần hoặc quên hết sự đời trong nhà dưỡng lão thì tôi may mắn có đôi chân tạm vững để trở lại thăm trường cũ: DINFOS. Nhưng cũng vì sao dời vật đổi nên trường cũng đã đóng cửa và chuyển về Fort Meade, Maryland từ 1995. Ngôi trường xưa bây giờ là đại học cộng đồng YVy Tech Community College tại đúng vị trí DINFOS thủa trước. Vì trường không còn nữa nên niềm xúc động càng thêm thấm thía dâng trào.


Nguyên thủy DINFOS là một trong nhiều trung tâm huấn luyện đặt bên trong Fort Benjamin Harrison - một đồn binh trực thuộc Bộ Quốc Phòng Mỹ được thiết lập do nhu cầu của hai cuộc chiến thế giới I và II. Sau thời chiến tranh lạnh, Fort Harrison cùng nhiều căn cứ quân sự khác khắp nước Mỹ tuần tự được trao trả cho dân sự. Tên gọi cũng đổi thành Fort Harrison State Park. Nếu dạo nào lính tráng đóng quân đầy đồn thì nay hàng quán chen lẫn với những khu nhà gạch đỏ được giữ lại. Dù có cố gắng cách mấy cũng không còn nhận ra được Fort Harrison năm nào. Tiệm thức ăn nhanh burger, gà chiên, quán cà-phê, phòng tập thể dục, văn phòng luật sư, nha sĩ, bác sĩ, nhà thuốc tây ... kể cả nhà hàng thức ăn Thái và Mễ cũng thấy rải rác đây đó. Khu BOQ gạch đỏ nơi sĩ quan các nước sang học được tạm trú vẫn còn y nguyên tuy có chỉnh trang đôi chút mặt tiền trong khi khu nhà sĩ quan cấp tá và chỉ huy của Fort Harrison vẫn được gìn giữ nguyên trạng.

Kỷ niệm của chuyến đi Mỹ đợt một vẫn còn đó dù chỉ mang máng trong ký ức của người lính này đã quá tuổi hưu. Đó là những hình ảnh tuyệt đẹp trong trí nhớ nay đã mòn của đám thanh niên được đến nước Mỹ tu nghiệp trong lúc quê nhà đầy loạn lạc tương tàn. Làm thế nào mà quên được những ngày đông lạnh lẽo ngồi trong phòng sưởi ấm áp của BOQ xem TV thời sự với hình ảnh tiến quân vào vùng Hạ Lào năm 1971. Quả thật lúc đó không một ai ý thức được rằng phóng viên Mỹ tại chiến trường VN đang cố tình tường thuật bất lợi cho chính quyền Nam Việt Nam trong cùng lúc thì báo in ở Mỹ hầu như cùng nhau mở chiến dịch công kích việc Mỹ tham chiến cũng như chương trình VN hóa chiến tranh. Tệ hơn nữa khi một năm sau (1972) tài tử Jane Fonda - đại diện cho xu hướng thiên tả của Hollywood, đến Hà Nội và tâng bốc quảng cáo không công cho chế độ cầm quyền.

Rời Saigon vào Giao Thừa Tết Dương Lịch 1 tháng Giêng 1971 cùng với binh lính Mỹ hết hạn quân dịch, chúng tôi được chúc mừng liên tục mỗi đầu giờ vì qua múi giờ nào cũng vẫn là New Year. Không thể diễn tả hết được nỗi vui, nỗi sướng vô biên của nhóm binh sĩ Mỹ được về với gia đình, lành lặn và nguyên vẹn sau khi trở về từ Khe Sanh, Dak-Tô, Hamburger Hill ... mà họ gọi là địa ngục trần gian. Đến sân bay Indianapolis trong giá buốt vào nửa đêm 31 tháng Chạp, nhân viên trường ra đón cũng lại "Welcome to the US and Happy New Year." Từ đó đến hết khóa học thời tiết lúc nào cũng giá buốt co ro lại càng làm cho nỗi nhớ nhà da diết hơn. Cũng may trong BOQ có bếp, có tủ lạnh nên chúng tôi vẫn có cơm, canh, cá, rau ... như ở bên nhà chỉ có điều không rườm rà lích kích vì còn phải dành thì giờ cho đèn sách. Nói vậy chứ các nơi như PX, Commissary, rạp xi-nê, câu lạc bộ sĩ quan vẫn được anh em tranh thủ chiếu cố. Học thì học nhưng không quên nhiệm vụ đi gom hàng: trong những năm 70' có loại kem dưỡng da Esotérica rất ăn khách mà mấy bà nhắc đi nhắc lại là phải mua cho bằng được. Thế nên có bạn đã mua không phải một lố mà nguyên thùng làm nhân viên PX ngớ luôn.

Nếu từ khu cư xá sĩ quan độc thân BOQ đến trường đã có xe buýt đưa đón ấm cúng thì ngược lại nếu muốn đi đến câu lạc bộ sĩ quan Officers' Club, chợ Commissary hay PX chỉ có lội bộ trong tuyết ngập đến đầu gối. Thú vui chơi nghịch với tuyết trắng ngoài trời chỉ được đúng vài tiếng đồng hồ vào ngày đầu tiên đến Mỹ, sau đó mọi người đều đồng lòng chỉ ngắm tuyết rơi từ bên trong cửa kính. Hôm nào lạnh quá tuyết đông cứng thành đá thì ai cũng ước gì được ở nhà khỏi đi học. Vì chương trình học là khóa căn bản cho sĩ quan báo chí nên tất cả học viên đều phải học từ săn tin, viết tin, biên tập tin đến nhiếp ảnh báo chí, quay phim kể cả mọi vai trò trong phim trường truyền hình - Cứ một nhóm vài ba người thay phiên nhau làm sản xuất, đạo diễn, chuyên viên thâu hình, chuyên viên ánh sáng và xướng ngôn đọc tin dưới sự giám sát của giảng viên. Tất cả đều dựa vào nguyên tắc cơ bản của thông tin là A-B-C (Accuracy, chính xác - Brevity, ngắn gọn - Clarity, rõ ràng) đúng khuôn phép của ngành thông tin quân đội. Theo tổ chức của quân lực Mỹ thì sĩ quan báo chí phải biết mọi thứ liên quan đến ngành truyền thông và hầu như các học viên tốt nghiệp khi trở về đơn vị đều được bổ nhiệm làm phát ngôn viên chính thức làm việc trực tiếp với chỉ huy trưởng.

Quy Mã

Những điều học được ở trường DINFOS đã giúp rất nhiều cho học viên Việt sau nay khi về nước cho dù áp dụng vào tình hình thực tế của ngành báo chí quân lực VN có khác - riêng tôi, cũng vì thành thật khai báo, nên được tổ chức cơ cấu vào vai trò làm báo tường cho Tết 1976 tại trại cải tạo Kà-Tum, Tây Ninh. Báo Tết vừa treo lên đã được lệnh của quản giáo hạ xuống ngay vì treo ngang hàng với ảnh chân dùng của "cha già dân tộc." Xém chút nữa thì bị kết tội phản động. Làm tốt việc tốt ca ngợi tốt ấy vậy mà cũng mất bảy năm mới tốt nghiệp với mảnh "Giấy Ra Trại" quý hơn vàng. Không thể ngờ mảnh giấy đó lại là thông hành vững chắc cho chương trình HO sau này - hay chuyến đi US đợt hai.

Đúng 30 tháng Tư, 1992 tôi lại lên máy bay đi Mỹ, để sau đó làm đúng nghề đúng việc như khi ở Saigon. Phải thú thật rằng chỉ khi máy bay cất cánh rời khỏi TSN rất lâu rồi tôi mới hoàn hồn - mình được rời khỏi thiên đường (đỏ) thật sao? Hai mươi mốt năm trước cảm nghĩ mang ý nghĩa khác hẳn - mình được du học Mỹ thật sao? Những điều học hỏi ở DINFOS về nghề làm truyền thông dòng chính trở thành kim chỉ nam quý giá trong công việc kiếm cơm hàng ngày. Và tiếng kèn đồng - bugle calls, được hệ thống loa phóng thanh vang tỏa khắp Fort Benjamin Harrison vào lúc thượng và hạ kỳ hàng ngày là nỗi nhớ khôn nguôi, hệt như tiếng kẻng tập họp nửa đêm để chuyển trại hay khám xét trong các trại cải tạo là nỗi ám ảnh hãi hùng.

Nói rằng hậu kiết cũng đúng phần nào nhưng nếu cho làm lại từ đầu thì chắc chắn mấy thanh niên du học Mỹ năm xưa sẽ nghe lời các anh sinh viên không quen là thà hy sinh ở lại làm di dân không giấy tờ chứ không về nước - cho dù phải mang tội đào ngũ với nhiều khả năng ra tòa quân sự. Nhưng mà đến tháng Tư, 1975 từ cấp lớn đến nhỏ cũng rủ nhu đào ngũ đấy thôi.

Tuesday, October 1, 2019

Trở Lại ‘Nam’

Đức Hà
SAI GON, Vietnam – Đây là lần thứ nhiều lắm tôi trở lại Việt Nam, nhưng điều kỳ lạ là mỗi khi phi cơ hạ bánh đáp xuống đường băng sân bay Tân Sơn Nhứt quen thuộc đến nhàm chán, thì lòng tôi lại háo hức hệt như Thanh Tịnh:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của ngày phải (đành) bỏ lại quê hương.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác vừa ngậm ngùi vừa vui ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em hàng xóm rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến (phi) trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường (Công Lý) dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi Mỹ.”
Đó là chuyện cách nay đã gần 20 năm với lời tự hứa chẳng muốn và cũng chẳng có cơ hội trở về. Ấy vậy mà run rủi đưa đẩy – lòng muốn không bằng Trời muốn, tôi đã có dịp vượt biển Thái Bình Dương trở lại nhiều lần hơn mình tưởng. Lần này, tháng Tám năm nay, tôi trở lại Nam với một “sứ mệnh” – sẽ trở lại chuyện này ở phần sau.

Trên Trời – Mười mấy tiếng đồng hồ trên trời cùng với trên dưới 300 hành khách, tôi cũng phát hiện vài điều vui. Chẳng hạn sau khi máy bay cất cánh khoảng một giờ (ba giờ sáng giờ Cali) thì đúng ra mọi người phải ngủ say, nếu không làm những việc linh tinh khác trên giường thì các tiếp viên bật đèn sáng choang trong khoang phi cơ, đánh thức mọi người và dọn ăn. Thay vì lắc đầu ngủ tiếp, đằng này hầu như mọi người đều ăn uống nhiệt tình và vô tư, kể cả tôi: 3 AM. Chuyện thứ hai kể ra đây để mọi người học tập và rút kinh nghiệm là hàng ghế bên trái tôi có ba mẹ con. Sau khi ăn xong, bà mẹ lấy trong bị để dưới chân ra một túi ny-lông, bên trong thấy có son phấn, một ống kem đánh răng và một bàn chải.­­­­ Và cứ thế lần lượt từng người, con trai, con gái và sau cùng người mẹ cùng đi đánh răng với duy nhứt cái bàn chải đỏ hiệu Colgate. Kể ra cũng tiện và tiết kiệm phải không? Đi chơi xa nguyên gia đình thì xài chung một khăn, một bàn chải, một phòng khách sạn nào có sao. Chẳng chết thằng vi trùng nào.
Dưới Đất – Taipei đón chào bằng 80 độ F, Tân Sơn Nhứt cũng chẳng kém: 90 F. Nhưng mọi người, nhiều người dường như vẫn sống, vẫn thi đua, vẫn phấn đấu mỗi ngày như mọi ngày trong bụi bặm, khói xe, tiếng còi inh tai bất tận. Bước ra khỏi cánh cửa kính của khu kiểm tra hành lí sân bay người ta thấy ngay sức sống như vũ bão của người dân Sài Gòn. Kẻ đón, người chào, rừng người, vòng tay ôm thắm thiết, bó hoa nồng nàn, taxi, xe nhà, xe khách trong bát nháo hỗn tạp … ấy vậy rồi đâu cũng vào đấy. Người ở xa về, người nhà ra đón cuối cùng cũng gặp nhau trong hoan hỉ và dĩ nhiên không thể thiếu những tiếng chửi thề thân quen. Rõ ràng Rồng Việt Nam đang cất cánh, nhưng Bill Hayton lại không mấy tin và ông viết thành sách Vietnam: Rising Dragon. Nhưng thôi chuyện rồng cất cánh, cọp Châu Á hãy để nhà nước lo.

Sứ Mệnh – Trong dự án báo chí Vietnam Reporting Project có 15 nhà báo thuộc đa chủng được trung tâm Renaissance Journalism Center tuyển chọn với sứ mệnh đào sâu nghiên cứu và phổ biến những thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau về tác hại của chất Da Cam vào môi trường và sức khỏe con người. Số phóng viên từ kỳ cựu đến giáo sư, sinh viên khoa báo chí sẽ dùng hình ảnh, phim video, bài phát thanh, bài phóng sự kể cả blog trên báo in, báo điện tử để vẽ lại toàn cảnh bức tranh Da Cam kinh hoàng mà có đến 20 triệu gallons hóa chất diệt cỏ này được rải trong thời chiến ở Việt Nam. Trong những ngày sắp tới đây, tôi sẽ gặp những con người phải sống với chân tay co quắp, sọ não phồng to, mắt lồi như mắt cá, miếng méo xệch, bước đi khập khiễn … trong một đất nước hòa bình. Đúng vậy chiến tranh đã đi vào quá khứ từ 35 năm nay nhưng dư âm vẫn còn ám ảnh dữ dội trên vài triệu con người bất hạnh đang sống chung với dioxin. Và khiếp đảm hơn nữa khi biết rằng tác hại sẽ còn kéo dài sang nhiều thế hệ khác. Công việc của tôi là một người Da Vàng viết về những người Da Vàng khác và chất Da Cam trong một đất nước đang vươn ra biển lớn.