TS: Bài viết về ông Nguyễn Văn Thiệu được đăng trên tuần báo Viet Mercury sau khi ông qua đời ngày 29 Tháng Chín, 2001 tại Boston, Massachusetts.
Ông Nguyễn Văn Thiệu đã nhắm mắt ra đi và ông cũng mang theo tất cả những bí mật riêng tư còn lại về cuộc chiến Việt Nam mà ông là một chứng nhân lịch sử. Ông không giải thích bao nhiêu những thắc mắc về những cáo buộc tham những và về số của cải ông có mang ra khỏi nước hay không hay về nguyên do khiến ông cho rút khỏi cao nguyên Trung phần đầu năm 1975.
Ông không để lại một cuốn sách nào như những người khác hay làm và cũng tránh tiếp xúc với báo chí. Ông không còn thấy xuất hiện trước công chúng kể từ năm 1993 sau khi đến San Jose để lần đầu tiên trình bày về một quan điểm ôn hòa với đối thủ cộng sản và ngay tức khắc ông đã bị những người đồng hương phản đối. Kể từ dạo đó ông lui về sống thầm lặng tại vùng ngoại ô Boston.
Tuy nhiên trước đó trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi dành cho báo Boston Globe năm 1992 ông Thiệu trả lời những người quy trách nhiệm cho ông về sự sụp đổ của miền Nam: “ … Quý vị cứ việc chỉ trích tôi đi. Tôi rất mong nhìn thấy quý vị làm được tốt hơn tôi.” Theo Wikipedia: “Vào năm 1992, ông Thiệu đã lên tiếng tố cáo sự xích lại gần nhau giữa chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhưng ít lâu sau ông lại có ý muốn tham gia vào các cuộc thảo luận hòa giải dân tộc, điều này đã làm một số người cực đoan tức giận, còn tướng Trần Văn Đôn nhận xét qua hồi ký của mình (xuất bản năm 1997) thì ông Thiệu là người thức thời với chủ trương đối thoại với người trong nước.”
Ít nhứt cũng có một cuộc biểu tình tại công viên St. James ở San Jose ngày 30 tháng Năm, 1993 để phản đối và nói rằng ông là “biểu tượng cho tham nhũng, và đáng lý ra ông nên tự sát một cách anh hùng thay vì bỏ chạy ra nước ngoài.”
Ông Thiệu là người lãnh đạo lâu nhứt tại miền nam Việt Nam và vì thế khi chế độ sụp đổ và hàng trăm ngàn người phải đi học tập cải tạo trong lúc cả triệu người phải bỏ nước ra đi thì tiếng tốt về ông không có bao nhiêu ngay cả từ những người từng được hưởng nhiều bổng lộc trong chiến tranh mà người ta chỉ nghe thấy những lời chỉ trích gay gắt về chiến thuật của ông khi ra lệnh rút quân khỏi Ban Mê Thuật để đưa đến cuộc di tản hãi hùng nhứt trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, theo lời những nhân chứng còn sống sót.
30 Tháng Tư,1975
Không đầy hai tháng sau, chiến cuộc Việt Nam kết thúc với 3 triệu người Việt, 58,000 lính Mỹ tử vong và đất nước bắt đầu rơi vào cảnh khổ khác. Và cũng như trường hợp của Tổng Thống Dương Văn Minh, người ta chỉ nhắm vào ông Minh có một điều duy nhứt là lời kêu gọi buông súng vào trưa ngày 30 tháng Tư khiến miền Nam bị cộng sản hóa hoàn toàn, nhưng liệu ai có thể thay đổi được vấn đề đó không?
“Nói rằng Nguyễn Văn Thiệu làm mất Việt Nam là trao cho ông Thiệu quá nhiều quyền; lịch sử Việt Nam đến năm 1975 phải đi tới một chỗ ngoặc; cho dù Thiệu, Minh hay Kỳ hoặc bất cứ ai cầm quyền phía nam vĩ tuyến 17 thì lịch sử vẫn sang trang,” ông Bùi Bảo Trúc, phát ngôn viên chính phủ trong các năm 1973-1974 cho biết.
“Phải đợi cho đến khi cát bụi lắng xuống hoàn toàn thì lịch sử mới có thể phán xét những con người như ông Thiệu, khen cũng như chê một cách chính xác,” ông nói.
Tuy vậy đối với những quân nhân phải đi học tập và lao động khổ sai dưới chính quyền mới thì quan điểm của họ đắng cay hơn; họ đã đổ máu và đổ mồ hôi ngoài chiến trường cho tới phút cuối cùng để sau đó phải tập trung cải tạo trong một hoàn cảnh vẫn thường được mô tả là "mút mùa."
“Mười hai năm cải tạo, gia đình tôi tan nát, con trai tôi chết ngoài biển, con gái tôi mất tích khi vượt biên; thử hỏi lỗi tại ai?” một cựu quân nhân hiện sống bằng tiền trợ cấp bệnh tật tại Santa Clara cho biết.
Vì lời chỉ trích gay gắt đầy phẫn nộ nhắm vào người lãnh đạo mà ông hoàn toàn tin tưởng sẽ mang lại thắng lợi cho miền nam Việt Nam nên ông xin được dấu danh tính.
“May mà còn chương trình H.O. để tôi được đi định cư ở Mỹ chớ ở lại với tụi nó (cộng sản) mà bệnh tật như vầy thì tôi không biết có sống được tới ngày hôm nay hay không.”
Ông Nguyễn Mộng Hùng, 67 tuổi cựu trung tá nhảy dù và tuy đã phải đi cải tạo trong 10 năm trời nhưng thái độ của ông vẫn là của một quân nhân, một cấp thừa hành.
“Ông Thiệu là cấp trưởng, là tổng tư lệnh quân đội và là người lãnh đạo quốc gia còn chúng tôi chỉ là sĩ quan cấp dưới nên chúng tôi không có thẩm quyền phê phán. Lịch sử sẽ phán xét ông ta. Và nói rằng tại ông mà hàng trăm ngàn người phải bị tù tội hay chết oan ức thì cũng không đúng; ai cũng biết rằng ông Thiệu lúc đó hoàn toàn bị bó tay.”
Ông Hùng còn có biệt danh Hùng Xùi hiện cư ngụ tại San Jose cũng tự nhận là người có lỗi với nhân dân. Ông nói:
“Cá nhân tôi cũng có lỗi là không biết tập hợp hàng ngũ để một lòng giữ nước cho đến cùng vì nếu được như vậy thì chưa chắc đã có ngày 30 Tháng Tư.”
Ông giải thích “Hồi đó mỗi khẩu đại bác chỉ được phép bắn năm viên đạn một ngày thì đánh cái gì!”
Thật vậy chiến tranh Việt Nam vào lúc lên đến cao điểm nhứt là các trận phản công tái chiếm thành công tại An Lộc, tại cổ thành Quảng Trị … cùng lúc với pháo đài bay B-52 của Hoa Kỳ dội bom ác liệt ngay khu vực Hà Nội trong năm 1972 thì bỗng nhiên giảm cường độ sau khi Hiệp Định Paris được ký kết ngày 28 tháng Giêng năm 1973. Kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh được đem áp dụng cùng lúc với việc quân đội Mỹ từ từ rút khỏi vai trò cố vấn và yểm trợ. Ngược lại cũng bắt đầu từ đó bộ đội cộng sản ngày càng tập trung đông quân hơn tại phía nam Bến Hải để rồi ra đưa đến chiến dịch có tên “Đai Thắng Mùa Xuân” thôn tính toàn bộ miền Nam – còn được gọi là “thống nhất đất nước.”
Ông Lâm Quang Thi ở Milpitas, Bắc California cựu trung tướng Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I giải thích rằng người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam vì quần chúng Mỹ quá chán ngán chiến tranh và trở thành phản chiến.
“Mỹ không có chiến lược rõ ràng, không biết phải làm gì và phong trào phản chiến tại Mỹ gia tăng áp lực vào Quốc Hội khiến họ phải cúp viện trợ.”
Ông nói thêm “Họ không cho đánh thẳng ra Hà Nội và cũng không chịu yểm trợ lâu dài cho phía Việt Nam Cộng Hòa thì phải gãy thôi. Trách nhiệm không hoàn toàn của giới lãnh đạo Việt Nam.”
“Sau khi bắt tay được với Trung Quốc rồi, thì Việt Nam không còn có vị trí chiến lược trong chính sách toàn cầu của Mỹ nữa,” ông Thi giải thích về sự xụp đổ không thể tránh được của Sài Gòn.
Nhà báo Judy Stowe của BBC viết trên báo The Independent: “Quân đội của Nam Việt Nam vượt cả về số lượng quân và trang thiết bị so với bộ đội Cộng Sản, nhưng về tinh thần thì kém xa rất nhiều. Nhằm duy trì quyền lực để vừa là Tổng Thống vừa là Tổng Tư Lệnh Tối Cao, ông Thiệu đã tập họp quanh mình những tướng lãnh yếu kém và thường là tham nhũng. Việc làm này thay vì củng cố thêm vai trò lãnh tụ của ông lại khiến số đông người dân chỉ trích ngày càng nhiều nhiều hơn về đường lối cầm quyền…” Những ngày cuối của lãnh tụ đệ Nhị Cộng Hòa được bà Stowe ghi lại: “… Ngày càng có nhiều áp lực buộc ông Thiệu phải từ chức với kỳ vọng một ứng viên tổng thống thỏa hiệp có thể thương lượng ngưng bắn với Hà Nội hầu cứu vãn những gì còn lại của Nam Việt Nam. Trong nhiều tuần lễ liền, ông ngoan cố không chịu nhượng bộ. Cuối cùng vào thứ Sáu 21 tháng Tư 1975, lúc Cộng quân tiến gần đến Sài Gòn hơn bao giờ, ông chấp nhận điều không thể tránh được và loan báo việc ra đi trên hệ thống truyền hình. Ngay cả lúc đó ông không hề nhận trách nhiệm về những sự kiện đã xảy ra…”
Chỉ có điều vào ngày tuyên bố từ chức ông nói “Mất một Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”, và ngay sau đó ông bay đi Đài Loan.
Đừng Nghe …
Nói đến Nguyễn Văn Thiệu, người ta khó mà quên được lập trường chống cộng đến cùng và câu nói được nhắc nhở nhiều sau khi cộng sản hoàn toàn kiểm soát miền nam Việt Nam là “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm.”
Ít ra những người còn kính trọng ông cũng vẫn cho rằng ông có lập trường chống cộng cương quyết, không khoan nhượng.
Lập trường đó của ông Thiệu cũng như của ông Diệm được ông Nguyễn Khắc Bình giải thích rằng đó là một sự dấn thân tận cùng cho đất nước.
“Nói gì thì nói, nhân dân miền nam cũng được hưởng không khí tự do trong 25 năm, tuy không hoàn hảo và không kéo dài được lâu hơn.”
Ông Bình, 70 tuổi từng là Tỉnh Trưởng Mỹ Tho thời Đệ Nhứt Cộng Hòa và Tư Lệnh Cành Sát và nắm cả mạng lưới trung ương tình báo dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Ông cho biết không thuộc bè phái nào và chỉ biết phục vụ cho đất nước nhưng định mệnh của đất nước là chuyện của Ơn Trên.
“Việc chế độ xụp đổ là ý muốn của Ơn Trên là do thời thế, tôi không oán trách hay phê phán các vị lãnh đạo. Tôi tin rằng Ơn Trên đã xếp đặt như vậy.”
Ông nói thêm: “Trong khi bao nhiêu người phải hy sinh mà mình giờ đây vẫn còn sống thì phải chăng có bàn tay mầu nhiệm của một đấng thiêng liêng nào đó hay sao.”
Thế nhưng nếu không chống cộng đến cùng thì phải hành động ra sao trong tình thế hiện nay. Ông Hoàng Cơ Định một thành viên thuộc Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã có cái nhìn mới về cuộc chiến đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam.
“Chúng ta cần nhìn Việt Nam của năm 2001 chứ không phải một tiếp nối của Việt Nam 1975; phải giải quyết vấn đề cả về xã hội chứ không chỉ về chính trị. Tất cả những chuyện đã xảy ra thì chỉ nên dùng đó làm kinh nghiệm thì tốt hơn.”
Ông nói thêm rằng phải “Cảnh giác thêm nữa để không bị lừa dối nhưng không có nghĩa là không nghe tất cả những gì họ (cộng sản) nói.”
Người dân Việt bình thường và nghèo khó vì chiến tranh lại càng nghèo khó hơn trong những năm tháng sau 1975 phần lớn chỉ nhớ về ông Thiệu có một điều là sau khi chế độ Sài Gòn xụp đổ, Nguyễn Văn Thiệu đã cùng với gia đình ra đi an lành và cáo buộc ông mang theo tất cả gia tài của đất nước, cho dù trước đó ông có tuyên bố “sẽ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, hạt gạo cuối cùng.”
“Vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì 17 tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn nguyên trong kho bạc nhà nước,” ông Nguyễn Xuân Nghĩa nguyên Thứ Trưởng Bộ Tài Chính trong những năm 74-75 xác nhận như vậy trong cuộc điện đàm từ miền Nam California.
Ông Nghĩa nói thêm: “Còn nói rằng ông Thiệu mang theo một tấn vàng như một người tự xưng là sử gia của Hà Nội trả lời cuộc phỏng vấn của đài BBC mới đây là hoàn toàn sai và bịa đặt. Một tấn vàng đâu có dễ gì bỏ túi mang ra khỏi nước đâu.”
Vào dịp 30 tháng Tư năm ngoái nữ phóng viên Marcella Bombardieri của báo Boston Globe đã viết về cuộc sống ẩn dật của ông Thiệu tại ngoại ô Boston:
“Cựu tổng thống của miền Nam Việt Nam đã không hề nói với công chúng một điều gì, không hề cho biết ông đã nghĩ gì trong dịp kỷ niệm 25 năm Sài Gòn sụp đổ, và đây cũng là dịp kỷ niệm 25 năm quyền lực của chính ông sụp đổ. Ông Nguyễn Văn Thiệu đã không trả lời cả chuông bấm cửa nhà ông …”
Sau khi thoát ra khỏi Sài Gòn ngày 29 tháng Tư, 1975 ông có tuyên bố “Rất dễ trở thành một kẻ thù của Hoa Kỳ, nhưng rất khó trở thành một người bạn.”
Di sản 17 tấn vàng để lại Sài Gòn, theo lời ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã được Hà Nội dùng trả nợ súng đạn cho Liên Sô hết sạch.
Và nhân cái chết của ông Thiệu, phát ngôn viên bộ ngoại giao tại Hà Nội chỉ tuyên bố vắn tắt “Nghĩa tử là nghĩa tận, xin để cho người quá vãng ngủ yên.”
Lễ hỏa táng sẽ diễn ra vào ngày mai Thứ Bảy 6 tháng Mười, 2001 tại vùng Boston.
No comments:
Post a Comment