By Quang X. Pham
Saturday, December 30, 2006
Quang X. Pham, who was born in Saigon, served
as a Marine pilot in the Persian Gulf War. He is a businessman and the author
of "A Sense of Duty: My Father, My American Journey."
"Today, America
can regain the sense of pride that existed before Vietnam. But it cannot be achieved
by refighting a war that is finished as far as America is concerned. . . . [T]hese
events, tragic as they are, portend neither the end of the world nor of America's
leadership in the world."
President Gerald R. Ford uttered those words in a
speech at Tulane University
on April 23, 1975, in the final days of Vietnam's long war. The rowdy crowd
roared and gave him a standing ovation. The military draft had ended and
American troops and POWs had returned home two years earlier. America had washed its hands of Vietnam, yet
millions of lives were still at stake.
Halfway around the world, my family experienced
the unfolding of those tragic events in South Vietnam. For us, it was the
worst of times. It seemed like the end of the world to me. I was only 10.
Dwight D. Eisenhower had sent American military
advisers to Vietnam to help
contain communism and prevent the "dominoes" from falling in Southeast Asia. John F. Kennedy dispatched thousands more
in a graduated response to a burgeoning insurgency. Lyndon B. Johnson broke his
promise not to send "American boys nine or ten thousand miles away from
home to do what Asian boys ought to be doing for themselves." Richard M.
Nixon prolonged the killing for another three years despite having a secret
plan to end the longest American war ever.
In the end, after two decades of flailing
diplomacy in that tiny peninsula, Gerald Ford dealt with the aftermath: empty
guarantees made to an ally, promises he could not keep and a "peace with
honor" that the congressional Watergate class would not enforce.
Years later Ford wrote a letter to the group of
Marines who had evacuated the U.S. Embassy in Saigon.
In it he said, "April 1975 was indeed the cruelest month. The passage of
time has not dulled the ache of those days, the saddest of my public
life."
But Ford became the savior to those lucky enough
to escape the taking of Saigon by the North
Vietnamese army. "I pray no American president is ever again faced with
this grave option," Ford said at a public forum on the legacy of the
Vietnam War 25 years later. "I still grieve over those we were unable to
rescue." He added that he was thankful America
was able to relocate 130,000 Vietnamese refugees (less than 1 percent of South Vietnam's
population) and that "to do less would have added moral shame to
humiliation."
My family and those other blessed South Vietnamese
found ourselves stuck in refugee camps across the United States. Outside the camps,
public sentiment against Vietnamese refugees ran high, although at the time we
did not feel it directly. The book on Vietnam had been closed for most Americans
until the refugees arrived in unprecedented numbers. Only the Hungarian and
Cuban refugee resettlements were of comparable scale. Newspapers portrayed the
country as split on what to do with the refugees.
In a May 1975 article in the New York Times, Sen.
Robert Byrd (D-W.Va.) commented that "barmaids, prostitutes and
criminals" should be screened out as "excludable categories."
Sen. Joe Biden (D-Del.) "charged that the [Ford] Administration had not
informed Congress adequately about the number of refugees" -- as if anyone
actually knew during the chaotic evacuation. "I think the Vietnamese are
better off in Vietnam,"
sniffed George McGovern in Newsweek.
At the time, unemployment in the United States
hovered near double digits. Perhaps this had something to do with the
anti-refugee emotion. In Larry Engelmann's "Tears Before the Rain: An Oral
History of the Fall of South Vietnam," Julia Vadala Taft, head of the
interagency task force for refugee resettlement, recalled such opposition. "The
new governor of California,
Jerry Brown, was very concerned about refugees settling in his state. Brown
even attempted to prevent planes carrying refugees from landing at Travis Air
Force Base near Sacramento.
. . . The secretary of health and welfare, Mario Obledo, felt that this
addition of a large minority group would be unwelcome in California. And he said that they already
had a large population of Hispanics, Filipinos, blacks, and other
minorities."
The refugees were extremely fortunate. Our biggest
supporter, outside of Julia Taft, was the president of the United States.
Even though he had described the Vietnam
conflict as "a war that is finished as far as America is concerned," Ford's
attention was now focused on the refugees. In May 1975 he visited the camps,
and soon after refugees began leaving to start new lives across America. The
government wanted to disperse the refugees to spread the cost among many states
and communities. By Christmas of that year, all refugee camps had been closed,
and the refugees were resettled in every state.
I am not aware of any other politicians, antiwar
protesters, esteemed journalists or celebrities visiting Fort Chaffee, Ark.,
where my family was temporarily housed for two months. But Gerald Ford did.
April 1975 was indeed the cruelest month for us.
But thanks to President Ford's leadership, we experienced America's
kindness and generosity during our darkest days. We owe him our deepest
gratitude in remembrance.
© 2006 Quang X. Pham
"This op-ed first appeared in The Washington Post."
Di Sản Tuyệt Vời Nhứt
của Tổng Thống Ford
Quang X. Phạm
LTS: Phạm Xuân Quang,
một phi công Thủy Quân Lục Chiến thời chiến tranh Vùng Vịnh và tác giả tập hồi
ký “A Sense of Duty: My Father, My American Journey,” hiện là một doanh nhân ở Nam California.
Bài xã luận “Ford’s
Finest Legacy” của Phạm Xuân Quang trên báo Washington Post ngày 30 tháng Mười
Hai, 2006 được MyOneViet chuyển dịch với sự đồng ý của tác giả.
“Đồng bào thân mến, ngày hôm nay nước Mỹ có thể hồi phục lại
niềm kiêu hãnh từng có trước chiến tranh Việt Nam. Niềm kiêu hãnh đó không thể
đạt được bằng cách lại tham gia trận chiến nay đã kết thúc … Những biến cố này,
tuy bi thảm nhưng không phải là điềm báo trước ngày tận thế hay sự chấm dứt vai
trò lãnh đạo của Mỹ trên trường thế giới.”
Tổng Thống Gerald R. Ford nhấn mạnh trong bài diễn văn đọc
tại Tulane University, ngày 23 tháng Tư, 1975, vào giai đoạn cuối của trận
chiến Việt Nam dài đăng đẳng. Đám đông sinh viên hét lên xung xướng và vỗ tay
vang dội. Chính sách động viên quân đội chấm dứt và binh sĩ Mỹ cùng tù nhân
chiến tranh đã trở về hai năm trước đó. Nước Mỹ phủi tay khỏi Việt Nam,
cho dù hàng triệu sinh mạng vẫn đang lâm nguy.
Từ bên kia nửa vòng trái đất, gia đình tôi chìm đắm vào
những diễn biến thảm thương của miền Nam Việt Nam. Với chúng tôi, đó là thời gian
tệ hại nhứt. Dường như là ngày tận thế. Lúc đó tôi chỉ mới 10 tuổi.
Tổng Thống Dwight D. Eisenhower gởi cố vấn quân sự sang Việt
Nam
để giúp ngăn cộng sản và chận những con bài dominoe không đổ xập. John F.
Kennedy điều động thêm hàng ngàn người nữa để đối phó với các cuộc nổi dạy ngày
một gia tăng. Lyndon B. Johnson phá vỡ lời hứa trước đó rằng “sẽ không gởi
thanh niên Mỹ đi xa hàng chục ngàn dặm để làm công việc mà chính người Châu Á
phải tự lo liệu.” Richard M. Nixon kéo dài cuộc chiến thêm ba năm nữa cho dù có
kế hoặch mật để kết thúc cuộc chiến dài nhứt của người Mỹ.
Cuối cùng, sau hai thập niên thi hành chính sách ngoại giao
không thành công tại bán đảo nhỏ bé, Tổng Thống Gerald Ford phải đối phó với
những hệ lụy: những cam kết trống rỗng với một nước đồng minh, những hứa hẹn
không thể giữ và một “nền hòa bình trong danh dự” mà Quốc Hội của thế hệ
Watergate không thể thi hành.
Nhiều năm sau, trong bức thư gởi nhóm binh lính Thủy Quân
Lục Chiến có nhiệm vu di tản Sứ Quán Mỹ tại Sài Gòn, ông viết: “Rõ ràng tháng
Tư 1975 là tháng ác nghiệt nhứt. Thời gian trôi qua không làm phai nhòa nỗi đau
của những ngày tháng đó, những ngày thê lương nhứt trong sự nghiệp cầm quyền của
tôi.”
Thế nhưng Tổng Thống Ford đã trở thành ân nhân của những
người may mắn thoát khỏi Sài Gòn khi thành phố này rơi vào tay Bắc Việt. “Tôi
cầu nguyện để không một vị tổng thống Mỹ nào sẽ phải đối đầu lần nữa với tình
huống nghiêm trọng như vậy. Tôi vẫn thương tiếc những người mà chúng ta không
thể cứu được,” ông Ford phát biểu tại buổi hội thảo công khai về hệ quả cuộc
chiến Việt Nam
25 năm sau. Ông nói thêm rằng ông biết ơn nước Mỹ đã tái định cư 130,000 người
tị nạn Việt (ít hơn 1% dân số Nam Việt Nam) và rằng nếu “ít hơn nữa sẽ chỉ
làm tăng thêm nỗi nhục tinh thần vào sự tủi hổ.”
Gia đình tôi và người Việt may mắn bỗng chốc trở thành những
con người chen chúc trong các trại tị nạn ở Hoa Kỳ. Bên ngoài trại, tình cảm với
người Việt của nhân dân Mỹ không được tốt đẹp, cho dù vào thời gian đó không tác
động trực tiếp vào chúng tôi. Với phần lớn người Mỹ, chương cuối của tập sách
về Việt Nam
đã kết thúc cho đến khi người tị nạn Việt đổ lên đất Mỹ với số lượng lớn chưa
từng có. Chỉ có di dân Hung-Ga-Ry và Cuba mới có tầm vóc quy mô như vậy.
Báo chí Mỹ mô tả đất nước Hoa Kỳ có những ý kiến khác biệt về việc phải giải
quyết như thế nào vấn đề người tị nạn.
Bài viết trên báo New York
Times tháng Năm 1975 của Thượng Nghị Sĩ Robert Byrd Dân Chủ-West VA
bình luận rằng những “phụ nữ bán ba, đĩ điếm và tội phạm,” phải được phân loại.
Thượng Nghị Sĩ Joe Biden (Dân Chủ-Delaware) buộc tội chính quyền Ford đã không
thông báo đầy đủ cho Quốc Hội về số lượng người tị nạn,” – làm như ai đó biết
hết mọi sự trong lúc di tản hỗn loạn. Ông George McGovern bày tỏ trên báo
Newsweek “Tôi nghĩ người Việt sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn ở chính nước họ.”
Vào lúc tình hình thất nghiệp tăng gần hai con số. Có thể
điều này phần nào gây nên mối ác cảm với di dân Việt. Trong cuốn “Tears Before
The Rain: An Oral History of the Fall of South Vietnam,” của tác giả Larry
Engelmann, Julia V. Taft, người đứng đầu cơ quan liên ngành đặc trách công tác
tái định cư người tị nạn bày tỏ về tình cảm chống đối đó. “Tân Thống Đốc
California Jerry Brown, rất ưu tư về việc tái định cư người tị nạn trong bang
của ông. Ông Brown toan ngăn cả phi cơ chở người tị nạn đáp xuống sân bay quân
sự Travis gần Sacramento…
Bộ trưởng y tế và an sinh, Mario Obledo, cảm thấy rằng gia tăng một số lượng
lớn người thiểu số tại California
sẽ không được đón nhận nồng hậu. Và ông nói rằng Calfornia đã có đông đảo người
Hispanic, Philippines, da đen và nhiều sắc
dân khác rồi.”
Người tị nạn rất may mắn. Người hậu thuẫn nhiều nhứt cho
người Việt, ngoài Julia Taft lại là Tổng Thống Mỹ. Mặc dù mô tả cuộc chiến Việt
Nam đã kết thúc, ông Ford giờ đây lại chuyển sự quan tâm vào người tị nạn.
Tháng Năm 1975, ông viếng thăm các trại, và không lâu sau đó người tị nạn bắt
đầu cuộc sống mới tại khắp nước Mỹ. Chính quyền muốn phân tán người tị nạn để
cộng đồng và chính quyền các tiểu bang cùng chia xẻ gánh nặng di dân Việt. Vào
Giáng Sinh cùng năm, tất cả các trại đều đóng cửa, và người tị nạn được đưa đi
định cư tại khắp Hoa Kỳ.
Tôi không được biết về một chính trị gia nào, kẻ chống chiến
tranh, các nhà báo uy tín hay nhân vật nổi tiếng đến thăm Fort Chaffee, ở
Arkansas, nơi gia đình tôi tạm sống trong hai tháng. Nhưng Tổng Thống Ford có
đến.
Nhứt định tháng Tư 1975 là tháng kinh hoàng đối với chúng tôi.
Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Tổng Thống Gerald Ford, chúng tôi đã biết đến tấm
thịnh tình và lòng bao dung của nhân dân Mỹ trong những ngày tháng tối tăm
nhứt.
Chúng tôi hết lòng biết ơn ông.