Thursday, August 9, 2012

Agent Orange/Dioxin Cleanup Project in Danang

Remarks by Ambassador David Shear at the Opening Ceremony of Historic Agent Orange/Dioxin Cleanup Project in Danang

August 9, 2012
Ladies and gentlemen:

Xin chao.

U.S. Ambassador David Shear
This morning we celebrate a historic milestone for our bilateral relationship.
Today’s ceremony marks the start of a project between Vietnam’s Ministry of National Defense and the U.S. Agency for International Development, USAID, to clean up dioxin contaminated soil and sediment at the airport left from the Vietnam War. Over the next few years, workers will dig up the contaminated soil and sediment and place it in a stockpile, where it will be treated using thermal desorption technology. This process uses high temperatures to break down the dioxin in the contaminated soil and make it safe by Vietnamese and U.S. standards for the many men, women, and children who live and work in this area.
We have worked together closely over many years in a spirit of mutual respect and cooperation to reach this point. With Presidential and Congressional support from Washington, my Embassy has cooperated with the Ministry of Natural Resources and Environment’s Office 33 since its establishment in 1999 to coordinate Vietnam’s policies and programs on Agent Orange. We’ve used annual meetings of the Joint Advisory Committee under the leadership of Office 33 and the U.S. Environmental Protection Agency to seek science-based solutions to complex environmental and health issues related to Agent Orange.

As part of Vietnam’s contribution to the cleanup, the Ministry of National Defense cleared unexploded ordinance from the airport site and will construct a power substation to supply electricity for the remediation process. We also greatly appreciate the strong commitment of other partners, including the Danang People’s Committee and Airport Authorities, to the success of this project.
But it’s not governments doing this alone. The Ford Foundation supported early research to identify dioxin hotspots in Vietnam and contain dioxin contamination at the Airport. With assistance from the U.S. Government, they also worked with Office 33 to craft interim measures to reduce dioxin exposure pending the full-scale, permanent cleanup.
The Bill and Melinda Gates Foundation and Atlantic Philanthropies also financed a $6 million laboratory that provides Vietnam with high-resolution dioxin analysis capability. From 2008 to 2012, three USAID partners -- the East Meets West Foundation, Save the Children, and Vietnam Assistance for the Handicapped -- provided medical, rehabilitation, employment, and educational support for 11,000 people in Danang living with disabilities, regardless of cause.

There’s a lot of expertise present here today to make sure this job gets done right. Our partners will bring the same commitment to health and safety that they have deployed on hundreds of other successful environmental remediation projects around the world. They will help create a safer and cleaner environment for the people who live in this vibrant and rapidly developing area.
Even as we launch this important project, we look forward to doing more. By the end of September, USAID will have started a new health and disability program to support people with disabilities, regardless of cause, in Danang and other locations. We are also preparing for an environmental assessment of the Bien Hoa hotspot in coordination with the Vietnamese Government, UNDP, and other donors.

But for now, let’s simply celebrate the success which brings us together this morning. As Secretary of State Hillary Clinton remarked while visiting Vietnam last October, the dioxin in the ground here is “a legacy of the painful past we share,” but the project we undertake here today, hand-in-hand with the Vietnamese, is “a sign of the hopeful future we are building together.” We are both moving earth and taking the first steps to bury the legacies of our past. I look forward to even more successes to follow.

Xin cam on.

Friday, August 3, 2012

Năm Cửa Hé Mở



Đức Hà

Lần đầu tiên tại San Jose, ba thế hệ họa sĩ nữ - tuổi từ ngoài 25 đến 80 ngoài, sẽ cùng ngồi chung trong cuộc triển lãm tranh và tượng tại Thư Viện Trung Ương Dr. Martin Luther King, Jr. và cũng lần đầu tiên năm cánh cửa đã hé mở để trải bày những suy tư về chủ đề Phụ Nữ Việt và Hội Họa. Trương Thị Thịnh, Lê Thị Quếhương, Jenny Đỗ, Nguyễn Trí Minh Quang và Trinh Mai chia sẻ những trăn trở, kinh nghiệm cũng như trở ngại trên con đường làm hội họa vẫn được cất giữ riêng cho đến ngày hôm nay. Trên mặt báo này.


Tiếp Cận

Họa sĩ Trương Thị Thịnh đến với hội họa, có lẽ ngay từ khi còn trong bụng mẹ bởi vì bố mẹ sinh ra đã có hoa tay và có khiếu vẽ ngay từ lúc biết ... vẽ.
“Lúc bé tôi chỉ có một ước mơ là được học về mỹ thuật và cha mẹ lại rất phóng khoáng về vấn đề học vấn nên chuyện tôi tiếp cận với ngành họa rất dễ dàng và nhiều thuận lợi,” họa sĩ Thịnh hồi tưởng lại. Tuy nhiên thời đó chỉ có duy nhất Trường Mỹ Thuật Hà Nội và đang có chiến tranh nên việc ra Hà Nội để học không thành nhưng bù lại tất cả các cuộc triển lãm tranh của giới nghệ sĩ từ Bắc vào Sài Gòn đều được chị hết lòng chiếu cố và mến mộ.
“Ý tưởng trở thành họa sĩ luôn nắm sẵn trong tôi chỉ đợi ngày ... lành tháng tốt,” chị nói.
Cũng thế Lê Thị Quếhương mê vẽ từ bé:
“Lớn lên ở Việt Nam, tôi thường được các thầy cô khen vẽ các con vật và cảnh trí đẹp, linh động nhưng còn ham chơi nên hội họa là chuyện xa vời, không bao giờ nghĩ tới.” Cho đến khi sang Mỹ vào đại học, sinh viên Quếhương mới khám phá ra các đề tài về mỹ thuật là lôi cuốn nhất, rồi lại được nhiều giáo sư khuyến khích cỗ vũ, thế là từ đó chị quyết định gắn liền với hội họa, một chọn lựa mãnh liệt mà chị không cưỡng lại được.
Nữ họa sĩ Nguyễn Trí Minh Quang, hiện ở San Francisco, phải cọ sát với sơn dầu và màu cọ là vì cha truyền con nối, không thể cưỡng lại được. Minh Quang viết: “Sanh ra trong gia đình đại họa sĩ, ba và má là hai tên tuổi lớn trong làng hội họa nên tôi thừa kể cái gene sáng tạo nghệ thuật. Có màu trong máu?” Không những vẽ, Minh Quang còn đàn, làm thơ, coi như cầm kỳ thi họa chị được ba phần tư. Minh Quang là con gái của hai họa sĩ Trương Thị Thịnh và Nguyễn Trí Minh.
Luật sư Jenny Đỗ không đến với hội họa mà ngược lại: “Hội họa đến với tôi,” chị cho biết và nhấn mạnh đó không phải là một lựa chọn mà là bắt buộc. Nếu không vẽ, không làm nghệ thuật thì mình không còn là mình nữa.
Trinh Mai, người trẻ nhất của nhóm, từng muốn làm nhiếp ảnh, làm vũ công, làm một nhà thơ ... để sau cùng say đắm với hội họa. Mai thổ lộ rằng cô bị quyến rũ từng bước một từ giai đoạn pha trộn mầu đến phác họa ý tuởng và truyền đạt tâm tư tình cảm của mình lên khung vải. Thăng hoa.

Trường Phái

Họa sĩ Thịnh - phụ nữ đầu tiên và duy nhất trúng tuyển vào khóa I trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn năm 1954 và tốt nghiệp bốn năm sau, nói rằng “ước mơ đã thành hiện thực và chẳng có gì để mơ ước thêm nữa.” Thế nhưng sau khi ra trường chị Thịnh dùng phần lớn thời gian để đi dạy tại các trường cấp trung học kể cả trở về dạy tại trường mỹ thuật nhiều hơn là sáng tác. Vì chương trình học phần lớn dựa vào tài liệu sách báo nước ngoài nhờ vậy học viên có cơ hội tiếp cận với nhiều trường phái hội họa của thế giới.
“Tôi không chọn lựa riêng trường phái nào để theo đuổi – vì cái nào cũng có cái hay nhưng tranh của tôi được giới phê bình xếp vào phái ấn tượng lãng mạn (impressionist lyrics).”
Cùng lúc thì ái nữ của chị có chọn lựa rõ ràng. Minh Quang giải thích: “Mỗi tranh thường có nhiều trường phái đi chung. Chánh là ‘abstract expressionism’ – tạo không khí bao quát, thêm vào ‘surrealism’ -- khêu gợi sự hấp dẫn; và sau đó, ‘realism’ -- kéo dài sự mê hoặc thưởng ngoạn.”
Lê Thị Quếhương lại chọn trừu tượng nhưng chưa vẽ bao giờ. Chị nói: “Khi ngẫm nghĩ hay quan sát một sự vật tôi thường liên tưởng đến con người. Vì vậy khi vẽ một đề tài gì tôi cũng thấy con người trong đó. Tôi rất thích trừu tượng (abstract) nhưng chưa vẽ bao giờ và thường dùng lối ‘semi-abstract’ để tìm đến với đề tài của mình.”
Họa sĩ luật sư Jenny Đỗ lại không theo một trường phái đặc trưng nào. Theo chị, sở thích và phong cách vẽ hoàn toàn trực thuộc vào thời gian và tình cảnh nhất thời và tranh của chị đã trải qua rất nhiều thay đổi và mang nhiều đề tài cũng như kỹ thuật khác nhau. Thế nên Jenny Đỗ mới thú nhận: “Tôi không thể định nghĩa được mình và lại càng không muốn định nghĩa nghệ thuật sáng tạo của mình vì tất cả luôn lung linh và thay đổi.”
Trinh Mai nhắm thẳng con đường ấn tượng và hình tượng để được phóng khoáng hơn nhưng cũng chất chứa đầy thử thách trong sáng tác. Không dựa vào một người mẫu hay hình ảnh nào có sẵn làm chuẩn mực, Mai để cho nét cọ bay lượn theo ý tưởng, theo cảm xúc biến đổi liên tục. Mai nói rằng chỉ có ấn tượng mới giúp cô khả năng “buông thả hoàn toàn và nhập vai vào với đề tài.” Tranh hình tượng của Mai, cho dù có dựa vào một khuôn mặt, một dáng vẻ nào đó của người thật, cô cũng dành đôi chút bí hiểm trong tác phẩm để cho người xem tự diễn giải.

Khỏa Thân

Khi hỏi về loại hình khỏa thân, các nghệ sĩ cho nhiều quan điểm rộng rãi phá bỏ điều mà không ít người vẫn cho là taboo nhạy cảm. Jenny Đỗ nhận xét: “Khỏa thân cũng giống như bao nhiêu đề tài khác. Tôi đã vẽ những tấm nói lên sự phối hợp giữa nam nữ như tấm ‘Germination of Temptation’ và đã chụp nhiều hình nude để sáng tác một số tác phẩm mang tên Tôi Quên Khổng Tử Nói Gì Về Phụ Nữ.” Các tác phẩm khỏa thân của Jenny đã bị cấm triễn lãm ở trong nước.
Quếhương chưa vẽ tranh khỏa thân, nhưng con người luôn là một hấp dẫn và là đề tài chính liên hệ trong các tranh vẽ của chị. Chị bộc bạch: “Nhìn ngắm thiên nhiên vạn vật, thường làm tôi liên tưởng đến con người. Từ đó khi thể hiện một tác phẩm tôi thường có những gợi hình về con người. Nhiều tác phẩm của tôi liên hệ tới tính dục.”
Cùng một quan niệm, Minh Quang cũng ưa thích vẽ tranh khỏa thân – cả nam và nữ. Theo chị “nếu không vẽ khỏa thân thì không có gì thử thách nữa!” và giải thích thêm rằng “cái đẹp của những đường cong, góc cạnh, chỗ nhấn của bắp thịt nằm dưới làn da, được ánh sáng tạo nên chiều sâu và khối cạnh… trở nên tuyệt đẹp.” Minh Quang không ngần ngại xác nhận: “Sex là chủ đề ẩn dấu bên trong phần lớn tranh của tôi. Nếu nhìn phớt qua người xem không thấy, nhưng thật ra các cảnh vô tư này hàm chứa nhiều hơn.”
Thật ra thì một khi đã học về hội họa thì phải qua lớp học về khỏa thân, chị Thịnh gợi nhớ lại một kỷ niệm khi còn là học viên ở trường:
“Chúng tôi phải nghiên cứu con người qua khỏa thân, và ngày nào cũng vậy từ sáng đến chiều phải đưa lên vải, lên giấy hình hài của con người nguyên thủy trần trụi - không kể là nam hay nữ, già hay trẻ.” Chị nói rằng dưới con mắt của họa sĩ khỏa thân chỉ là thuần túy thẩm mỹ và chị đã có nhiều cuộc triển lãm ở Việt Nam với toàn tranh khỏa thân.
Không khác quan điểm của đàn chị, Trinh Mai cũng hết mình với tranh nude. Mai thực hiện nhiều tác phẩm trong thể loại này và cho rằng hình hài con người là một trong những sáng tạo tuyệt với nhất trên trái đất này. Càng nghiên cứu nhất là cơ thể của người nữ, Mai nhận thấy tạo hóa kỳ diệu không chỉ ban cho người nữ một hình dáng tuyệt mỹ bên ngoài đồng thời bên trong là cả một bộ máy sinh học kỳ diệu.

Thực Tại

Nghệ sĩ sáng tác phải có không gian riêng rẽ và rất nhiều thời gian để thai nghén, phát triển và mở rộng ý tưởng thành tranh - vậy họ đã làm thế nào để cân bằng giữa nghệ thuật sáng tác và cuộc sống gia đình trong xã hội. Jenny Đỗ cho rằng không bao giờ có sự cân bằng. Chị thẳng thắn:
“Cuộc sống của người phụ nữ làm nghệ thuật và song song với các lãnh vực khác là cả một sự hy sinh, đè nén. Có lúc nghệ thuật được thoát ly, tự do, bùng lên như tia sét, có  lúc phải nín thở để giết chết nghệ thuật. Tuy nhiên, vì sự hậu thuẫn và yêu thương của người bạn tri kỷ, nghệ thuật trong tôi lại mấy phen nổi dậy như nước vỡ bờ. Tất cả các sự thăng trầm đều là những hạnh phúc và tốn kém vô kể cho cuộc sống và tâm hồn.” Nguyễn Trí Minh Quang lại cân bằng được cả hai và cuộc sống gia đình của chị không bị ảnh hưởng. “Hay nói ngược lại, cuộc sống nghệ thuật không bị chuyện gia đình ảnh hưởng ngăn trở.”
Quếhương giải thích vấn đề một cách rất ... trừu tượng như tranh vẽ:
“Khi đã đi vào con đường sáng tác rồi, tôi mới khám phá ra làm nghệ thuật là một điều hết sức cần thiết cho đời sống. Với tôi, hội họa đã khai mở ra những cõi thâm sâu của con người. Từ đó những liên hệ với con người nói chung, và những người thân nói riêng trở nên vô lượng. Mỗi một con người đều có một thân phận, và thân phận đó đã đến với tôi như một vì sao. Tôi phải biết tìm ra được ánh sáng lung linh của vì sao đó. Và đó cũng chính là mục đích sáng tác của tôi.”
Trong cùng lúc thì họa sĩ Trinh Mai vẫn chưa phân biệt được trắng đen, ranh giới giữa nghệ thuật hư cấu bao la và thực tại cơm-cháo-gạo-tiền. Mai viết bằng Anh ngữ trong e-mail “This is something I am trying to figure out!”
Trinh Mai nhìn nhận rằng cùng lúc phải làm vợ, làm con, làm chị và dĩ nhiên làm một phụ nữ Mỹ gốc Việt trong gia đình và làm hội họa là một thử thách lớn lao. Đôi lúc Mai không thể làm được và phải từ bỏ vài vai trò, chẳng hạn khi chú tâm vào họa thì chuyện bếp núc được gạt ra ngoài, chưa kể phải đòi hỏi sự tĩnh lặng và tránh xa thế giới thật. Và Mai mong rằng sẽ được mọi người thân rộng lòng thông cảm. Nói về người tình trăm nay, Trinh Mai nói: “Chúng tôi hiểu nhau và hết lòng hỗ trợ nhau.” Có lúc Mai định kiếm việc làm 9 đến 5 và để hội họa sang một bên nhưng chồng cô cứ nhất quyết “công việc của em là ở trong studio.”
May mắn hơn cả là họa sĩ Trương Thị Thịnh khi ông nhà tôi Nguyễn Trí Minh cũng là họa sĩ. Một người đi dạy toàn thời gian, một người vẽ toàn thời gian và trong nhà lại có nguời giúp việc đỡ đần nên chẳng có vấn đề gì, không nhiêu khê như ở Mỹ khi có con nhỏ. Chị nói ở Việt Nam thời đó chỉ có rất ít phụ nữ họa sĩ nên được mọi người yêu mến trân trọng.

Qua trao đổi không thấy họa sĩ nào ta thán về sự sai lầm ngay từ đầu khi chọn ngành hội họa, không người nào ngỏ ý muốn rời bỏ cọ và màu và sơn, hầu như rất hạnh phúc làm nghệ thuật nhưng không biết liệu kiếp sau (nếu có) các chị có muốn vẫn xin làm họa sĩ và chỉ mong đời không chê trách.